10 phương pháp điều hành một viện nghiên cứu

Đâu là phương pháp tốt nhất để điều hành một viện nghiên cứu ? Mỗi nghiên cứu viên có những ý kiến và định nghĩa khác nhau về khái niệm này. Kinh nghiệm 25 năm xây dựng một trong những viện kinh tế hàng đầu ở châu Âu (Viện Nghiên cứu Kinh tế Thế giới - Institute for International Economic Studies, IIES, Stockholm) được cựu giám đốc, Giáo sư Assar Lindbeck chia sẻ tóm tắt trong 10 điều.

1. Một viện nghiên cứu nên cố gắng vươn đến những nghiên cứu cận biên (research frontier) của thế giới và từ đó góp phần đẩy biên nghiên cứu này xa hơn. Đây là cách hợp lý duy nhất làm nên sự xuất sắc trong nghiên cứu, và do đó, tránh được những nghiên cứu tầm thường, thậm chí chất lượng kém. Nghiên cứu chất lượng kém còn tệ hơn là không có nghiên cứu gì cả vì nghiên cứu chất lượng kém phát tán những nhận thức sai khiến các nhà nghiên cứu giỏi sau đó phải tốn thời gian để phản bác.

2. Để đạt được những tham vọng đó, khả năng công bố các công trình nghiên cứu trên bình diện quốc tế, đặc biệt tại các tạp chí học thuật danh tiếng rất quan trọng - bởi từ đó, nghiên cứu được đánh giá bởi cộng đồng nghiên cứu thế giới. Bằng không thì có một nguy cơ rất lớn rằng các mục tiêu của các nghiên cứu viên chỉ ở tầm nội địa, vốn thấp hơn. Các lãnh đạo của một viện nghiên cứu rất khó ngăn các nghiên cứu tầm thường công bố nếu viện có một cơ quan xuất bản riêng. Chính vì lẽ đó mà IIES không có các cơ quan xuất bản riêng.

3. Sự có mặt của những nghiên cứu viên khách mời hàng đầu tại viện nghiên cứu rất quan trọng; điều này nhằm nhập thụ kiến thức và giúp tăng cường tầm nổi tiếng trên bình diện quốc tế của viện. Trong suốt thập niên 1970 khi IIES chỉ thuần túy là một viện giảng dạy - nghiên cứu, một số những nghiên cứu viên viếng thăm thường ghé lại khoảng từ 6 tháng hoặc thậm chí một năm đóng vai trò cực kì quan trọng cho việc nâng cấp từ từ năng lực của Viện. Ngày nay, khi mà Viện đã có 7 giáo sư (full professor) (khi so với một giáo sư trước năm 1984), tầm quan trọng của việc có những nghiên cứu viên khách mời ghé lại những khoảng thời gian dài về mặt nào đó giảm đi.

4. Mỗi nghiên cứu viên tại những viện nghiên cứu có tiếng có xu hướng tự phát triển các liên kết nghiên cứu trên bình diện quốc tế cho riêng mình. Các chính trị gia và các nhà quản lý đại học thường tin rằng các mạng lưới nghiên cứu nên được tổ chức, chẳng hạn bằng các thoả thuận và hợp đồng giữa các viện với nhau. Tuy nhiên, điều mà các nghiên cứu viên cần là các mối hợp tác nghiên cứu ở những nơi khác nhau trên thế giới, điều này thì các thoả thuận chính thức giữa các đại học thường tỏ ra không hữu dụng. Những hợp tác như vậy, thay vào đó, có thể khởi động bằng việc mời một nghiên cứu viên nước ngoài đến thăm Viện, hoặc bởi một nghiên cứu viên của Viện đến thăm một viện nghiên cứu ở nước ngoài. Những liên kết nghiên cứu thành công phản ánh thông qua mối quan hệ tương tác cá nhân khăng khít giữa các nghiên cứu viên và ở những bài báo viết chung, thay vì giữa những thoả thuận chính thức giữa các viện. Tham gia trong những dự án nghiên cứu và hội thảo quốc tế, cùng với việc tổ chức các hoạt động tương tự, là một cách khác để kiến tạo ra những liên kết nghiên cứu. Do đó, việc hỗ trợ tài chính cho những hoạt động như vậy là cách tốt nhất đối với các chính trị gia và các nhà quản lý giáo dục nhằm kích thích việc hợp tác nghiên cứu ở tầm thế giới.

5. Nên tập trung các nguồn lực vào một số lĩnh vực nghiên cứu nhất định. Trong suốt 10 năm đầu, IIES tập trung chỉ vào một lĩnh vực duy nhất: lý thuyết kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế cho các nền kinh tế mở. Việc chọn một đề tài như vậy chủ yếu dựa vào khả năng làm mẫu. Điều này xảy ra khi Assar Lindbeck và một vài sinh viên đến Viện vào những năm đầu thập niên 1970 đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực này; những nghiên cứu viên khác cùng quan tấm đến lĩnh vực này gia nhập Viện, và việc điều phối các hoạt động nghiên cứu diễn ra như có một bàn tay vô hình thay vì bởi một kế hoạch rõ ràng. Sau đó, IIES đã lần lượt mở rộng tầm nghiên cứu tới một vài lĩnh vực mới, chẳng hạn như mậu dịch thế giới, kinh tế lao động, tổ chức công nghiệp, kinh tế phát triển, và tài chính thế giới, khi mà số nhân viên nghiên cứu gia tăng.

6. Nghiên cứu thành công đòi hỏi khả năng có được một tiềm lực quyết định trong một hoặc vài lĩnh vực. Kinh nghiệm cho thấy cần ít nhất nửa tá người trong mỗi lĩnh vực. Tiềm lực quyết định được định nghĩa, về mặt hoạt động, như là trường hợp khi mà có một xác suất lớn rằng một vài nghiên cứu viên tại Viện thật sự cảm thấy thích thú khi đọc những bản sơ thảo nghiên cứu của nhau. Các buổi thuyết trình sẽ trở nên thú vị hơn nếu ít nhất ba hoặc bốn người cùng quan tâm đến cùng một lĩnh vực. Tần số hợp tác nghiên cứu giữa những nghiên cứu viên tại Viện là một chỉ số cho thấy một mức độ tương tác lớn đã đạt được hay chưa và do đó, có hay không một tiềm lực quyết định thật sự tồn tại. Sự hoà hợp giữa các thế hệ nghiên cứu viên – các nghiên cứu viên giàu kinh nghiệm (các giáo sư), nghiên cứu sinh sau tiến sỹ, và nghiên cứu sinh - cũng rất hữu ích.

7. Một tương tác mạnh giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu phương pháp luận, ở một mặt, và nghiên cứu ứng dụng, ở một mặt khác, là một yếu tố quan trọng cho sự thành công trong nghiên cứu. IIES lúc đầu thường bị chỉ trích ở Thụy Điển vì đã nhấn mạnh đến lý thuyết quá nhiều. Tuy nhiên, tầm quan trọng của một nền tảng đào tạo vững chắc về lý thuyết và phương pháp luận là một yếu tố chính nằm sau những đóng góp của IIES về nghiên cứu ứng dụng. Không có một nền tảng lý thuyết và phương pháp luận vững chắc, nghiên cứu ứng dụng thường là tầm thường hoặc kém, và giảm chất lượng theo thời gian. Đôi khi ngược lại, những kết quả khảo nghiệm quan trọng của những nghiên cứu viên ứng dụng có tác dụng kiểm nghiệm lại tính hợp lý của các lý thuyết được phát triển bởi những nghiên cứu viên thiên về lý thuyết.

8. Tuyển dụng là một công việc hành chính quan trọng nhất. Nếu tuyển dụng được thực hiện tốt, người giám đốc có thể tập trung vào công việc chính của mình – tạo ra một bầu không khí nhiệt tình. Để giữ việc quản trị hành chính ở mức thấp nhất, cần để mỗi người tự quản và phân phối những nhiệm vụ hành chính chung đến những thành viên khác nhau trong Viện. Nghiên cứu chất lượng cao đòi hỏi mỗi cá nhân được quyền chọn lĩnh vực và đề tài. Mệnh lệnh và những hệ thống cấp bậc không phù hợp với một môi trường nghiên cứu sáng tạo, nơi mà mỗi người là chủ của chính mình. Một điều quan trọng nữa là việc có những thư kí và phụ tá nghiên cứu giỏi – một điều mà IIES luôn nhấn mạnh. Ít nhất thì các vị khách nước ngoài hài lòng với những dịch vụ cơ bản của Viện.

9. Một viện nghiên cứu sẽ nhận được một thuận lợi lớn nếu nó là một phần của một trường đại học tốt. Điều này cho phép các khoa và ngành khác của trường đại học đóng góp vào những xung lực trí thức mới. Nó cũng cho phép có được một sự tương tác giữa nghiên cứu và giáo dục - vốn kích thích cả nghiên cứu viên và sinh viên. Những thành viên của IIES trong những năm gần đây đã tăng cường tham gia giảng dạy ở tất cả các cấp bậc của khoa Kinh tế (trường Đại học Stockholm). Các thành viên IIES cũng cố gắng thuyết phục các đồng nghiệp trong các khoa khác về tầm quan trọng của việc những giáo sư trực tiếp tham gia giảng dạy cả ở những bậc đại học và cao học.

10. Cuối cùng, một viện nghiên cứu cho ra những bài báo và cuốn sách không chỉ dành riêng cho cộng đồng nghiên cứu thế giới, mà còn cho quảng đại quần chúng quan tâm đến các vấn đề kinh tế. Đây cũng là một cách mà một viện nghiên cứu, vốn hoạt động nhờ tiền thuế có thể trả ngược lại cho những người đóng thuế theo một cách khá trực tiếp và dễ nhận thấy. Những thành viên của IIES đã thực hiện bằng cách đưa ra các phân tích cho những vấn đề cả về các chính sách kinh tế cho Thụy Điển và kinh tế toàn cầu đương đại. Để không mất đi nhiều thời gian dành cho nghiên cứu hàn lâm các đóng góp này nên được duy trì như một lĩnh vực “tay trái”. Thực ra, việc theo dõi sát các thảo luận về các vấn đề chính sách kinh tế cũng giúp các nghiên cứu viên tìm ra các đề tài phù hợp cho các nghiên cứu hàn lâm.

Nguyễn Huy Vũ (ĐH Stockholm) lược dịch từ Principles for Successful Research, Ten Commandments