Chìa khoá thành công tại Trung Quốc

Trung quốc

GS Thạch Nguyễn là một khuôn mặt ưu tú và sáng chói của làng tim mạch học thế giới. Là Giám đốc Khoa Tim mạch, Trung tâm Y tế St Mary, Indiana (Mỹ), GS thỉnh giảng và GS danh dự của Đại học Indiana (Mỹ), Đại học Y khoa Trinity, SVG, Đại học Y khoa Bắc Kinh, Nam Kinh, Trung Quốc, Viện Tim mạch học Quốc gia Việt Nam.

GS Thạch Nguyễn là tác giả của nhiều sách giáo khoa tim mạch học thuộc hàng kinh điển và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ông là người Việt duy nhất có chân trong ban điều hành Hội Tim mạch Mỹ.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài Diễn văn nhận chức GS danh dự trường Đại học Y khoa Hà Nội của ông.

Kính thưa quý thầy, quý GS và các bạn,

Năm nay đánh dấu 19 năm làm việc của tôi ở Á châu, chủ yếu ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam. Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn GS Nguyễn Đức Hinh, Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Hà Nội, GS Phạm Gia Khải, nguyên Chủ tịch Viện Tim mạch học Quốc gia Việt Nam và GS Nguyễn Lân Việt, Chủ tịch Viện Tim mạch học Quốc gia Việt Nam về lòng hiếu khách nồng hậu và mối quan hệ làm việc tốt đẹp trong những chuyến đi Việt Nam của tôi.

Hôm nay, một ngọn gió lành đã đưa tôi đến Hà Nội và buổi lễ chiều nay là kết tinh của những ngày dài rong ruổi ở những thủ đô và thành phố lớn của châu Á, chủ yếu là Trung Quốc. Đây là lần thứ 8 tôi nhận chức GS danh dự hay thỉnh giảng, trong đó 3 lần từ các trường đại học y ở Bắc Kinh và 2 lần từ các đại học ở Nam Kinh, Trung Quốc.

Nhân dịp này, tôi muốn chia sẻ những tâm tình và một vài kinh nghiệm với các GS và các bạn BS trẻ về chìa khoá thành công tại Trung Quốc. Những ý tưởng trong bài này đã được trình bày nhiều lần, đặc biệt là vào năm 2008 tại Bệnh viện Quân đội trung ương 301 của Quân đội Nhân dân Trung Quốc.

Tôi đến Bắc Kinh và Vũ Hán vào mùa thu năm 1992 để dạy kỹ thuật nong động mạch vành tại Hội nghị Tim mạch Song Dương Tử lần thứ ba. Sau khi chứng kiến các BS Trung Quốc học kỹ thuật nong mạch vành do tôi biểu diễn bằng cách quan sát qua màn hình TV, tôi đã đề nghị với GS Dayi Hu áp dụng phương pháp cầm tay chỉ việc như tại các bệnh viện Mỹ. GS Dayi Hu là người bạn thân nhất của tôi tại Trung Quốc, hiện nay là Chủ tịch Hội Tim mạch Trung Quốc.

Trong phòng thông tim, các BS Trung Quốc là người thực hiện thủ thuật nong mạch vành, trong khi các chuyên gia Mỹ đứng ngay sau lưng họ, cầm tay và giúp họ thực hiện thủ thuật từng bước một. Đây là lần đầu tiên phương pháp giảng dạy này được áp dụng ở Trung Quốc.

Phương pháp này đã rất thành công và được các nhà tim mạch học Trung Quốc tiên phong hoan nghênh nhiệt liệt. Một trong những bác sĩ Trung Quốc học viên trẻ lúc bấy giờ nay đã là một GS đầu ngành tại Bác Kinh và năm 2012 sẽ là Chủ tịch Hội Tim mạch Trung Quốc.

Phương pháp cầm tay chỉ việc đó cũng đã được áp dụng tại Hà Nội, Việt Nam từ năm 1997, khi phái đoàn Mỹ đến Việt Nam lần đầu tiên. Giờ đây thì những BS tim mạch của Hà Nội, Sài Gòn, và Huế đã làm rất giỏi các kỹ thuật thông tim, đặt giá đỡ, đốt điện trong buồng tim, đóng các lỗ thông bẩm sinh trong buồng tim. Đó là những đóng góp lớn cho đất nước và cộng đồng tim mạch Việt Nam. Đây là điều làm tôi sung sướng và hãnh diện nhất.

Sau đó, năm 1993, tôi tổ chức những khoá học tương tự và xây dựng chương trình tim mạch học can thiệp tại Bệnh viện Chao Yang, một trong những bệnh viện lớn nhất tai Bắc Kinh. GS Dayi Hu và tôi cùng tổ chức lần đầu tiên một hội nghị tim mạch quốc tế mang tên Vạn Lý Trường Thành mà hôm nay đã trở thành hội nghị tim mạch lớn nhất Trung Quốc.

Từ năm 1992 đến nay, mỗi năm tôi đều đi dạy học ở Bắc Kinh, Thượng Hải hay Nam Kinh. Năm 1994, có một số bạn Việt Nam thấy tôi đi Trung Quốc nhiều mà không ghé Việt Nam, thì họ thắc mắc tại sao tôi hay đi làm việc ở Trung Quốc mà không hay đi Việt Nam hay những quốc gia khác.

Tôi trả lời là có một thôi thúc mãnh liệt khiến tôi đi làm việc nhiều ở Trung Quốc là vì tôi muốn đảo ngược một hướng lịch sử đã đã kéo dài gần 2.000 năm. Trong suốt gần 2.000 năm qua, cho đến tận thế kỷ 20, các học giả Việt Nam, Hàn Quốc, và Nhật Bản đều phải đến Bắc Kinh Trung Quốc để học hỏi về Khổng giáo hay tham vấn một kỹ thuật và nghệ thuật trị quốc khác. Nay tôi muốn đến Bắc Kinh để dạy lại và đóng góp vào sự phát triển và lớn mạnh của ngành tim mạch Trung Quốc.

Nhưng những ý kiến nào sẽ làm cho những bài báo cáo của tôi ở Trung Quốc trở thành đặc biệt? Có những điều gì tôi nói sẽ khác biệt và hay hơn so với bài báo cáo của những đồng nghiệp Mỹ khác? Tôi xin kể lại hai câu chuyện về một câu hỏi khó được đặt ra cho tôi khi làm việc tại Bắc Kinh.

Việc thứ nhất là vào năm 2002, trong dịp kỷ niệm 10 năm giảng dạy của tôi ở Trung Quốc, khi kết thúc một cuộc phỏng vấn với một tờ báo Y khoa Trung Quốc, người phóng viên yêu cầu tôi cho một lời khuyên cho cộng đồng bác sĩ tim mạch Trung quốc.

Ngạc nhiên vì tầm vóc và ảnh hưởng quá lớn của câu hỏi này, tôi đã trả lời một cách nhã nhặn: "Trong 10 năm qua, các GS người Mỹ đã đến Trung Quốc để dạy làm các thủ thuật. Sau 10 năm, các BS Trung Quốc đã biết cách làm tất cả các thủ thuật tim mạch trên, và có thể làm giỏi hơn các GS Mỹ. Nên bây giờ các GS Mỹ đến Trung Quốc không phải để chuyển giao những kiến thức có sẵn nữa, mà để chỉ cho các BS Trung Quốc cách đặt câu hỏi".

"Khi đối diện với một vấn đề, nếu chúng ta biết đặt câu hỏi đúng, chúng ta sẽ có câu trả lời đúng. Nếu chúng ta đặt câu hỏi sai, câu trả lời và cách giải quyết cũng sẽ sai. Đó chính là chìa khoá thành công của phương pháp làm việc của Mỹ khi phân tích và giải quyết một vấn đề". Câu trả lời này đã làm những GS Trung Quốc thích thú vì tôi đã giúp họ tìm ra một chìa khoá đưa đến thành công.

Câu chuyện thứ hai cách đây hai tuần khi tôi đang dạy học ở Nam Kinh, tôi gặp một GS đồng nghiệp cũng là một tướng hai sao trong Quân đội Nhân dân Trung Quốc. GS này mời tôi đi giảng dạy tai một hội nghị tim mạch can thiệp vào tháng 4 năm tới, do BV Quân đội lớn nhất vùng Đông Bắc Trung Quốc tổ chức.

Dĩ nhiên, việc được mời là một niềm hãnh diện. Tuy nhiên, nó cũng đem đến một câu hỏi gai góc. Trong vòng 15 năm về trước, khi tôi đến Trung Quốc hay châu Á, tôi có thể báo cáo bất cứ đề tài nào tôi thích. Ngày nay trình độ hiểu biết về tim mạch ở Trung Quốc và Việt Nam đã rất cao.

Vì vậy tôi phải nói những gì mà khiến cử toạ không ngủ gục và thực sự thách đố trí thông minh của họ (như buổi lễ ngày hôm nay chẳng hạn). Nếu tôi muốn được tiếp tục mời giảng dạy trong tương lai, thì những bài báo cáo của tôi phải chứa đựng những kiến thức rất mới mẻ, rất đặc biệt và rất đột phá.

Tôi tìm ra lời giải cho câu hỏi khó trên khi đến báo cáo tại Bệnh viện 301 ở Bắc Kinh. Đây là Bệnh viện TW Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, một nơi mà tôi đến đây hàng năm từ năm 1997. Bạn tôi, một Đại tướng của Quân đội Nhân dân Trung Quốc, GS Shi Wen Wang đã hỏi tôi có chịu nhận các BS đang học chương trình tiến sĩ đến Mỹ tu nghiệp với tôi hay không.

Ngạc nhiên trước yêu cầu này, tôi hỏi ngược lại: Các BS tim mạch học Trung Quốc đã làm được tất cả các thủ thuật tim mạch, tại sao họ phải đến Mỹ để học? Vị Đại tướng Trung Quốc trả lời: "Họ phải đến để học cách tư duy của ngừơi Mỹ." Tôi nghĩ đây là một câu trả lời rất đột phá và cực kì đặc biệt.

Vị GS, Đại tướng Quân đội Nhân dân Trung Quốc này đã khám phá chìa khoá thành công của người Mỹ là lối tư duy của họ: khi tiếp cận một vấn đề, người Mỹ đi thẳng vào sự việc, nhìn vấn đề từ nhiều khía cạnh, có khi tư những lối tư duy tất khác biệt, không theo lối mòn hay le trái le phải, bật ra ngoái khuôn mẫu để giải quyết tận gốc và không "đánh trống bỏ dùi" khi công việc còn dở dang.

Tôi hiểu rằng tất cả các yếu tố trên đã đem lại thành công do cách nghĩ và làm việc theo kiểu Mỹ. Từ đó tôi áp dụng các phương pháp làm việc trên, nhấn mạnh cách làm việc đó với các BS Trung Quốc và đó là chìa khoá thành công cho tôi và cho nhiều BS và GS Trung Quốc làm việc với tôi.

Cách đây 2 tuần, tại Nam Kinh, tôi đến báo cáo tại một nhà thương đại học lớn nhất ở đây. Khi BS Giám đốc của nhà thương biết tôi sắp đi Việt Nam với ĐH UIC để làm việc với Bệnh viện ĐH Hà Nội, ông liền khẩn khoảng yêu cầu tôi giúp cho việc hiện đại hoá Bệnh viện Đại học ở đây.

Viên giám đốc Bệnh viện cho biết hiện đại hoá nay đòi hỏi những thay đổi rất lớn và hành chính, nhân sự và nhất là lối nghĩ. Đây là một câu nhận xét tối đã nghe nhiều lần ở Trung Quốc.

Khi nhìn đến cách làm việc ở Trung Quốc hôm nay, xin đừng tưởng là đường lối làm việc ở Trung Quốc bảo thủ dâu. Trung Quốc đang tiên bộ rất nhanh là vì người dân và giới lãnh đạo Trung Quốc học lối tư duy mới, dám nói, dám làm, dám nhìn nhân sự thật và dám thay đổi.

Không phải là cứ khư khư ôm các tư tưởng cũ rích 2500 năm về trước (dù đó là của Khổng Tử) hay những tư tưởng nhảm nhỉ, dị đoan từ nước ngoài về mà tôn sùng nó và bảo đó là tiến bộ, là sáng tạo, là văn minh đâu. Phải có tư tưởng đột phá để thay đổi và phát triển. Đó là cách làm việc thần kì của Trung Quốc hôm nay và đó là chìa khoá thành công của một nền kinh tế Trung Quốc hùng cường phát triển vượt bậc hôm nay.

Nhưng có một điều đã làm cho nhiều người ngạc nhiên hơn nữa là tại sao tôi có thể làm việc thành công tại Trung Quốc một cách LÂU DÀI TRONG SUỐT HƠN 18 NĂM khi xã hội Trung Quốc đã thay đổi gấp 1000 lần kể từ ngày tôi đến Trung Quốc đầu tiên năm 1992. Làm sao tôi có thể làm việc tại Trung Quốc MỘT CÁCH LÂU DÀI khi các bạn Trung Quốc đầu tiên của tôi nay đã già và nghỉ hưu và bây giời tôi đang làm việc với các GS lớp trẻ thế hệ 2 ở Trung Quốc?

Tôi trả lời, chúng tôi (gồm có GS BS Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Việt Nam, Thái Lan, v.v) làm việc
dựa trên nguyên tắc năm nguyên tắc cơ bản của Khổng giáo là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín và đức Dũng của Phật Giáo.

Trên cơ sở của luân lý Khổng Mạnh và Phật giáo này, chúng tôi hợp tác trong một tình bạn trung thực, đối xử trên quan hệ bình đẳng, không phải là một quan hệ chủ tớ, không phải là người mạnh uy hiếp người yếu. Chúng tôi làm việc trong một tâm tính kính trọng lẫn nhau và giúp nhau không để bị người khác lợi dụng, cộng tác để dựa trên thành công chung, có lợi cho tất cả mọi người.

Tôi xin nhắc các GS. TS khi đến làm việc tại Bắc Kinh, không phải là cứ quỵ luỵ, hạ mình luồn cúi thì người Trung Quốc sẽ ban thêm cho chút tình "hữu nghị" và cơ hội "hợp tác" đâu. Người Trung Quốc thông minh lắm, họ biết ngay những người nào là bạn thật và người nào là kẻ xu nịnh sẵn sàng phản bội khi có cơ hội.

Xã hội và lịch sử Trung Quốc không hề ca tụng những nịnh thần, những kẻ bán nước cầu vinh, mà còn khinh bỉ những người đó nữa. Lời chỉ trích xây dựng của một người có giá trị hơn lời ca tụng suông của cả nghìn người khác. Ở Bắc Kinh, không ai thèm nghe và tin những lời ca tụng sáo rỗng đầy giả dối đâu.

Trong suốt gần 20 năm, sau gần một phần ba cuộc đời bôn ba giảng dạy ở Trung Quốc, tôi cũng chưa hề đọc được một tác phẩm nào của bất cứ sử gia chân chính người Trung Quốc hay nghe một GS Trung Quôc nào ca ngợi những Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung hay Lê Chiêu Thống... cả.

Trong khi đó, các chiến công và lòng yêu nước của Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo hay Quang Trung Nguyễn Huệ... đều đã được ghi chép cẩn thận bởi những sử gia Trung Quốc. Mặc dù họ không đồng thuận với lòng yêu nước của các anh hùng hay liệt nữ Việt Nam, nhưng những tấm gương đó luôn được kính trọng và ngưỡng mộ từ Việt Nam, Trung Quốc và ngay tại Mỹ.

GS Noboyoshi người Nhật nói rằng, ông thường hay nhắc các GS, TS, nhân viên Chính phủ Nhật khi đến họp hay làm việc ở BK, một ngạn ngữ rất thông dụng ở Trung Quốc: Nếu bạn xử sự như một con lừa thì đừng ngạc nhiên nếu hôm nào có một người cưỡi trên lưng trên cổ đấy.

Hôm nay, trong niềm vinh hạnh được nhận chức danh GS danh dự tại Đại Học Y Hà Nội, tôi đã mở đầu bằng lời cảm ơn các GS, các thầy. Nhưng khi kết thúc, tôi xin ngỏ lời cảm ơn các BS trẻ Việt Nam đã học giỏi, làm việc tốt, đóng góp lớn cho xã hội, cộng cuộc nghiên cứu y khoa và ngành y tế Việt Nam. Nhờ sự đóng góp to lớn của các BS trẻ do mà nhà trường và bệnh viện đã nhớ đến tôi ngày hôm nay va tặng tôi danh hiệu GS danh dự này. Tôi xin cảm ơn các bạn rất nhiều, các BS trẻ của Việt Nam.

Hôm nay cũng nhiều lần trước, tôi đã cảm ơn các bác sĩ trẻ học trò của tôi ở Trung Quốc làm việc rất giỏi nhờ đó các Đại học và Bệnh viện mới nhớ đến tôi và tặng cho tôi các bằng GS danh dự.

Thực ra tôi không dám nhận nhiều chức GS danh dự tại Trung Quốc, hiện có 4 đại học y và bệnh viện ngỏ ý tặng tôi các chức danh GS danh dự mà tôi không dám nhận vì khi nhận xong, các khoa trưởng trường y và giám đốc bệnh viện đều nói: Do bây giờ ông là GS của chúng tôi, xin đến đây và giúp các bênh viện và đại học của chúng tôi thường xuyên hơn. Nhưng làm sao tôi có thể đi đến Trung Quốc và các nước khác nhiều hơn được nữa, vì ngày ngày còn phải đi cày ruộng kiếm cơm ở Mỹ nữa chứ!

Cuối cùng, trong một cái nhìn bao quát, do sự phổ biến khắp nơi của cellphone, Internet, Facebook, thế giới ngày nay đã và đang trở thành một ngôi làng nhỏ. Khi bước ra thế giới, ước nguyện của người Việt chúng ta là sẽ đóng góp các giá trị cao quí về phẩm cách, tri thức Việt Nam dựa trên niềm tin vào sự thật cho sự thanh bình và thịnh vựơng của ngôi làng chung mang tên thế giới đó.

Mỗi lần về Hà Nội, tôi cảm thấy ấm lòng khi thấy các sinh viên, bác sĩ, GS Việt Nam, những người mẹ, những người cha, những người anh, chị và em vẫn hăng hái làm việc trong tinh thần Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín và Dũng. Với những nguyên tắc chỉ đạo đó, tôi thấy người Việt Nam có thể hãnh diện ngẩng cao đầu phục vụ xã hội và tự tin làm việc với bạn bè năm châu.

Với những nguyên tắc Nhân Lê Nghĩa Trí Tín của Khổng Mạnh và Dũng của Phật giáo, chúng ta mới có thể hoà mình với thế giới không sợ để làm mất đi những di sản tinh thần và vật chất, hay đất nước yêu quí mà tổ tiên để lại. Với lòng tự tin và đoàn kết đó, chúng ta mới có thể, đối phó một cách mạnh mẽ và hữu hiệu với những khó khăn gây ra do những người láng giềng gần hay xa, trên biển Đông, bên kia Thái Bình Dương, từ Tây Phương xa xôi hay từ phương Bắc ngàn trùng cách trở qua dãy núi mang tên Thập vạn đại sơn.

Với lòng tự tin, hãnh diện và đoàn kết đó, chúng ta mới có thể ra biển lớn đóng góp vào ngôi làng thế giới đó mà không lo những hành động, thái độ hay lời nói của chúng ta làm tủi hổ cho lịch sử anh hùng, quật cường của cha ông mà chính chúng ta là người thừa kế. Chỉ như vậy, chúng ta mới xứng đáng để hãnh diện với tổ tiên, với chính bản thân và với con cháu chúng ta là tương lai đất nước sau này.

Khi nhìn vào sự cố gắng vượt bậc, niềm tự hào, hãnh diện đó trên những khuôn mặt Việt Nam già và trẻ hôm nay, tôi vững tin vào một tương lai rạng rỡ, hưng thịnh của Tố quốc và dân tộc Việt Nam, thế giới mà mọi chúng ta là những thành phần gắn bó. Với những ý tưởng khiêm tốn và hành động nhỏ bé này, tôi xin kết lời và cảm ơn các thầy, các GS, các bạn trẻ Việt Nam đã lắng nghe.

(VEF)