HOÀNG HẠC LÂU QUA THI CA CÁC SỨ THẦN NƯỚC NAM (2)

PHAN HUY ÍCH, ĐOÀN NGUYỄN TUẤN, NGÔ THỜI VỊ, PHAN THANH GIẢN

Phan Huy Ích làm Chánh sứ năm 1790 thời Tây Sơn, đoàn đi sứ đông nhất trong lịch sử với 158 người, có ông vua giả Nguyễn Huệ (do người cháu vua là Phạm Công Trị giả dạng), có hoàng tử Nguyễn Quang Thùy, có cả một ban hát bội 10 người, trong sứ đoàn còn có Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn... đồ cống phẩm có hai con voi đực. Khi đi đến Hoàng Hạc Lâu, Phan Huy Ích viết bài thơ gửi về Binh Bộ Thượng Thư Ngô Thời Nhậm. Ngô Thời Nhậm là anh rễ Phan Huy Ích, theo sự phân chia công việc trong lúc sứ đoàn sang Trung Quốc, Ngô Thời Nhậm túc trực ở thành Lạng Sơn, nhận tin tức thường xuyên sứ đoàn. Vua Quang Trung thật ẩn danh tại Thăng Long bàn bạc theo dõi tình hình cùng Nguyễn Nể tại dinh Kim u (Bích Câu).

Bài thơ Hoàng Hạc Lâu, ở nhà trạm Võ Xương kèm Quốc thư gửi quan Binh Bộ Ngô (Thì Nhậm): Muôn dậm rong ruổi mới được nửa đường. Tóc nhuốm sầu mà sinh bạc phơ. Bóng buốm côi ngoài gác Tình Xuyên. Tiếng đoãn địch trước lầu Hoàng Hạc. Nhớ lại hương thơm hoa chi, chung niềm chí khí. Chi lan là tình bạn anh em thân thiết (anh em bạn rễ); Sách Gia Ngữ: Đức Khổng Tử chép: Ở với người thiện như vào nhà có cỏ chi cỏ lan. Khiến ngòi bút thay nhau vịnh việc ở đi. Một vầng trăng tròn trên thành bên sông. Tưởng cũng sáng thâu đêm ở Cầu Đông. Cầu Đông là cầu bắt ngang sông Tô Lịch ở phía Đông thành Thăng Long, thường gọi Cầu Đông bến Đá. Thăng Long Tam Thập Vinh có cảnh Đông kiều lộng địch là cầu này.

LẦU HOÀNG HẠC
(Ở nhà trạm Võ Xương gửi quan Binh Bộ Ngô)
Muôn dậm ruổi rong được nửa đường,
Bạc phơ mái tóc nhuốm sầu sinh.
Tình Xuyên ngoài gác buồm đơn lướt,
Hoàng Hạc lầu bên tiếng sáo vang.
Hồi tưởng hoa thơm cùng chí khí,
Phân chia ngòi bút việc cư hành.
Một vầng trăng tỏ thành sông sáng,
Tưởng sáng thâu đêm cầu bến Đông.

(Thơ Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ)

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HOÀNG HẠC LÂU
(Võ Xương dịch thứ phụ Quốc thư ký Ngô Binh Bộ)
Vạn lý trì khu thủy bán trình,
Phân phân hoa phát đới sầu sinh.
Tình Xuyên các ngoại cô phàm ảnh,
Hoàng Hạc lầu tiền đoản địch thanh.
Hồi ức chi hương đồng chí khí,
Phân giao tảo bút diệc cư hành.
Giang thành nhất phiến đoàn viên nguyệt,
Tưởng diệc Đông kiều nguyệt dạ minh.

(Dụ Am ngâm lục tập II. Nxb KHXH. TP HCM 1978 tr20, tr28)

Phan Huy Ích chú thích về Hoàng Hạc Lâu như sau: “Lầu ở thành Vũ Xương, nhìn xuống dòng sông Hán. Truyền thuyết Phí Văn Phi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc vàng chơi ở đó. Nay tầng thứ nhất có tương thờ Phí, tầng thứ hai có tượng thờ Lã Tiên (tức Lã Đồng Tân hiệu là Thuần Dương người đời Đường gặp loạn Hoàng Sào, đem gia quyến đến núi Chung Nam ở và tu tiên đắc đạo ở đó) bên cạnh đó có tương thờ Lư Sinh, phía sau có đình Táo Tiên, rễ táo vẫn giống như rễ trầm hương. Cách bờ là bến lớn sông Hán, người tụ tập đông đúc, hàng hóa chất đầy... Núi Qui, gác Tình Xuyên, bãi Anh Vũ thật là những cảnh đẹp trong trời đất. Người ta vẽ nhiều cuốn tranh lầu Hoàng Hạc để bán cho khách. Sứ bộ ta từ nhà công quán ở Hán Dương, bơi ngang thuyền đến. Buổi chiều lên gác cao, bồi hồi nhìn bốn phía, lúc đó quan Hàn Lâm họ Đoàn (Đoàn Nguyễn Tuấn), đã làm ba bài thơ trước, tôi mượn một bài, có nhuận sắc thêm, dựa vào bài bút đề trên vách lầu của ông Đoàn, tôi cũng ghi lại bài thơ.”

Phan Huy Ích viết bài thơ nghĩa như sau: Buộc neo vào mỏm đá dưới khe, lên thăm cảnh tiên. Mái lầu cao trăm thước đứng trên đầu. Hạc vàng mây trắng, lời thơ tuyệt trần. Sóng biếc cây hồng cảnh thu trong trẻo. Thị thành hoa lệ vẻ tranh chẳng giống. Khói nước mênh mông lòng khách thêm sầu. Cảnh thật đầy trước mặt, ngâm vẫn chưa xong. Mượn đề tài tạm ghi lại chuyện chơi lầu.

CHƠI HOÀNG HẠC LÂU
Ghềnh đá buộc neo thăm cảnh tiên,
Mái cao trăm thước đỉnh lầu trên.
Hạc vàng, mây trắng, lời ngâm tuyệt,
Sóng biếc cây hồng thu gió lên.
Thành thị vẽ tranh lầu chẳng giống,
Khói sông man mác khách sầu thêm.
Cảnh đầy trước mặt ngâm chưa đã,
Mượn thơ ghi lại thú lầu tiên.

(Thơ Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ)

Nguyên tác phiên âm Hán Việt
DU HOÀNG HẠC LÂU
Khê ki duy lãm phỏng tiên du,
Bách xích phi manh nhiếp thượng đầu.
Hoàng Hạc bạch vân nga tuyệt diệu,
Bích ba hồng thụ điếu thanh thu.
Thị thành hoa lệ đồ phi tiếu,
Yên thủy thương man khách diệc sầu.
Chân cảnh mãn tiền ngâm vị cánh,
Tá đề liêu kí thử đăng lâu.

Phan Huy Ích còn có bài thơ khác làm lúc đi về lại lên thăm Hoàng Hạc Lâu: Trước kia đến Lầu Hoàng Hạc có làm thơ gửi cho quan Binh Bộ Ngô (Thì Nhậm), nay trở về lại lên chơi lầu, bèn họa bài thơ trước gửi tặng: Cỏ thơm, sông tạnh vẫn con đường ngày trước, nay trở về lòng mừng tưởng như mọc cánh. Ánh sáng mùa thu lặng lẽ chiếu vào ba tầng lầu, lòng nhớ quê hương vội vã bay theo một tiếng nhạn. Xong việc báo tin về, ngựa trạm chạy nhanh, đường sứ xa xôi thuyền khách đang đi. Nhớ khi ở Ải Nam Quan, cầm tay hẹn hò nhau, Thỉnh thoảng lại nhìn bóng trăng sáng ngời ở ngôi đài trên núi (đài Chiêu Đức, nơi sứ thần bày đồ cống phẩm cho quan nhà Thanh xem xét).

LẠI LÊN CHƠI HOÀNG HẠC LÂU
Sóng tạnh, cỏ thơm vẫn lối xưa,
Tưởng như mọc cánh lúc xe về.
Ánh thu lặng chiếu ba tầng gác,
Tiếng nhạn bay theo một nỗi quê.
Xong việc tin về ngựa trạm lướt,
Xa xôi đường sứ khách thuyền về.
Nam Quan ải nhớ cầm tay hẹn,
Trăng soi trên núi bóng đài xưa.

(Thơ Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ)

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẠC LAI HOÀNG HẠC LÂU
(Hữu thi thiếp ký Ngô Binh Bộ kim hồi du tư lâu tái y tiên vận phi ký)
Phương thảo tình xuyên cựu khứ trình,
Qui biền hỉ tự vũ hàn sinh.
Thu quang tỉnh chiếu lâu tam điệp,
Hương tứ mang tùy nhạn nhất thanh.
Thoan sự thư hồi bưu kỵ mẫn,
Chu tư lộ viễn khách chu hành.
Nam quan bả ác tưong kỳ cứu,
Thời phán sơn đài nguyệt sắc minh.

Đoàn Nguyễn Tuấn đi sứ cùng sứ đoàn năm 1790, trong Hải Ông thi tập (nxb KHXH, Hà Nội 1982) có viết 4 bài thơ về Hoàng Hạc Lâu, rất tiếc tập thơ Viện Nghiên Cứu Hán Nôm lược bỏ 3 bài chỉ còn bài thứ nhất:

Trăm thước lầu cao dựa vòm trời biếc, một dãi lụa trắng chia cõi tây đông. Lay đọng trước sông, thảm cỏ rậm rạp trên bãi thơm phô màu xanh biếc. Trên bờ bên kia, rặng phong thưa nơi gác nắng rực rỡ sắc hồng (gác Tình Xuyên). Nơi đây xưa thuộc nước Sở của Hạng Vũ từng tranh giành cuộc cờ với Lưu Bang, thời Tam Quốc thuộc nước Ngô của Tôn Quyền. nơi xảy ra cuộc chiến đấu tranh hùng tranh bá, giành nhau hơn thua như đánh cờ... Thần tiên ngâm vịnh trong tiếng sáo, nhiều nhà thơ vịnh phong cảnh Hoàng Hạc Lâu, tiếng ngâm vịnh của họ vẫn còn văng vẳng đâu đây. Có khách cưỡi bè lên cao ngắm cảnh, sông dài man mác vang lên tiếng cối chiều hôm.

LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Trăm thước lầu cao dựa biếc xanh,
Một làn lụa trắng cách tây đông.
Bãi thơm cỏ mượt xanh khung cửa,
Gác nắng rừng phong đỏ cách sông.
Hùng bá cuộc cờ tranh cuộc chiến,
Thần tiên ngâm vịnh sáo đàn vang.
Cưỡi bè có khách lên cao ngắm,
Tiếng cối chiều hôm nổi giữa dòng.

(Thơ Đoàn Nguyễn Tuấn, Nhất Uyên dịch thơ)

Nguyên tác phiên âm Hán Việt
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU
Bách xích phi lâu ỷ bích không,
Nhất điều tịnh luyện giới tây đông.
Phương châu thảo mật dao song thúy,
Tình các phong sơ cách ngạn hồng.
Hùng bá tranh hành kỳ cục lý,
Thần tiên khiếu vịnh địch thanh trung.
Thừa xà hữu khách đăng cao vọng,
Thanh điếu trường giang khởi mộ trung.

Lê Anh Tuấn (1671-1731) hiệu Địch Hiên, người làng Thanh Mai, huyện Tiên Phong (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Tây). Đỗ tiến sĩ năm 1694, từng làm Chánh sứ sang nhà Thanh năm 1715, cha nuôi của Đoàn Thị Điểm, có bài thơ viết về Hoàng Hạc Lâu:

Danh tiếng vùng sao Dực, sao Chẩn ghi nhớ đó là đất Hán Dương, cảnh sắc bốn bề ở đây đã đi vào thi ca và ngâm vịnh. Khói sóng mênh mang khiến tâm tư thêm buồn, gió trăng mời gọi làm chén khách phải say. Cây cổ thụ giăng ngang như tấm mành che trên bờ sông. Cột buồm dựng thẳng tựa cây rừng giữa bến mê. Ở bên vùng bến nước ai là bậc trượng phu ? Thẹn vì cơ tâm lâu nay vẫn còn vương vất. Vùng sao Dực, sao Chấn chỉ miền Nam Trung Quốc theo địa lý xưa. Cơ tâm: sách Liệt Tử ghi: Có người hàng ngày ra bể chơi đùa với chim âu. Chim âu cũng vui nhờn với anh ta. Sau đó anh ta nảy sinh ý định bắt chim âu làm thịt nên chim âu thấy anh ta là xa lánh vì anh ta nảy sinh cơ tâm, lòng không tốt.

LÊN LẦU HOÀNG HẠC NGẮM CÂY Ở HÁN DƯƠNG
Dực, Chẩn danh lam đất Hán Dương,
Bốn bề cảnh sắc vào văn chương.
Mênh mang khói sóng buồn lòng khách,
Trăng gió gọi mời say chén suông.
Cổ thụ giăng màn che bến nước,
Cột buồm dựng thẳng tựa rừng sương.
Trượng phu trên bến là ai đó ?
Có thẹn lòng bao nỗi vấn vương.

(Thơ Lê Anh Tuấn, Nhất Uyên dịch thơ)

Nguyên tác phiên âm Hán Việt
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU VỌNG HÁN DƯƠNG THỤ
Dực Chẩn danh phong chí Hán Dương,
Tứ hoàn cảnh sắc nhập bình chương.
Yên ba hạo diểu sầu nhân tứ,
Phong nguyệt chiêu yêu túy khách thương.
Già ngạn mạc liêm hoành cổ thụ,
Mê tân lâm mộc thụ phong tường.
Cư tân thùy thị trượng nhân giả,
Tu thuyết cơ tâm cứu thượng hương.

Ngô Thời Vị (1774-1821) từng làm Phó sứ năm 1807 (đời vua Gia Long) và Chánh sứ năm 1821, thay thế Nguyễn Du mới mất. Năm 1807 ông viết: Bức thành bên sông Hán Thủy, dưới bóng cây và bóng mây mùa thu lờ mờ. Người tiên không thấy đâu, chỉ thấy mái lầu trơ trọi. Còn hạc vàng ở bên trời bao giờ trở lại ? Hình như dòng sông phó mặc cho đàn âu trắng bơi lội. Nhà thơ Lý Bạch chưa chịu thua ai vè bút lực bao giờ sao lại chùn bút. Nhà thơ Thôi Hiệu sao lạ cảnh, chạnh lòng nhớ quê buồn rầu thế ? Sứ thần nước Việt Nam là Ngô Thời Vị, chẳng sợ đề thơ kỷ niệm cuộc chơi hôm nay.

ĐỀ LẦU HOÀNG HẠC
Sông Hán bên thành rợp lá mây,
Người tiên không thấy, thấy lầu đây.
Hạc vàng đi mãi bao giờ lại ?
Âu trắng dành riêng dãi nước đầy.
Lý bá cớ chi chùn bút vội ?
Thôi quân sao lại nhớ quê ngay ?
Sứ thần nước Việt: Ngô Thời Vị,
Chẳng sợ làm thơ viếng cảnh này.

(Thơ Ngô Thời Vị, Nhất Uyên dịch thơ)

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ĐỀ HOÀNG HẠC LÂU
Hán thủy thành biên vân thụ thụ,
Tiên nhân bất kiến, chỉ không lâu.
Hà thời tiên tế lai hoàng hạc,
Đề ý giang trung phó bạch âu.
Lý bá vị ưng thâu bút lực,
Thôi quân bất hợp tác tương sầu.
Việt Nam sứ giả Ngô Thời Vị,
Đấu đảm đề thi ký thử du.

Phan Thanh Giản làm Chánh sứ năm 1834 (Minh Mệnh thứ 14) viết: Hạc vàng đã khuất đến nay bao nhiêu năm. Nay có người vùng cực Nam đến thăm. Phan Thanh Giản xác định mình là người đất Nam Kỳ, vùng cực Nam xa xôi nhất đến thăm Hoàng Hạc Lâu. Bãi Anh Vũ trước mặt vẫn xanh cỏ thơm. Trên gác Tình Xuyên đám mây trắng lững lơ che bóng mát. Vén nửa bức rèm thấy mặt trời lặn như trôi trên sông Hán. Câu thơ tuyệt đẹp. Đầy mắt khói sóng mênh mông làm cho lòng cảm xúc. Câu kết: Du du trần mộng thập thu tâm. Nhặt chút lòng thu giấc mộng trần. Phan Thanh Giản chơi chữ thật thú vị: dùng chữ thu tâm chữ Hán hai chữ viết chung lại thành chữ sầu để nhắc đến chữ sầu trong thơ Thôi Hiệu.

LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Hạc vàng xưa khuất đã bao năm,
Từ góc trời Nam người đến thăm.
Anh Vũ trước bờ xanh cỏ mượt,
Tình Xuyên gác lững trắng mây râm,
Nửa mành trời lặn trôi Giang Hán,
Một dãi sông dài xuyên cổ kim.
Khói sóng mênh mông lòng cảm xúc
Nhặt chút lòng thu giấc mộng trần.

(Thơ Phan Thanh Giản. Nhất Uyên dịch thơ)

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU
Tích thời hạc dĩ hà niên khứ,
Thiên tải nhân tòng nam cực lân.
Anh Vũ châu tiền phong thảo lục,
Tình Xuyên gác thượng bạch vân thâm.
Bán liêm lạc nhật phù Giang Hán,
Nhất phiến hàn lưu tống cổ câm (kim)
Mãn mục yên ba chuyễn trù trướng,
Du du trần mộng thập thu tâm.

Thơ ngâm vịnh Hoàng Hạc Lâu tạm dừng nơi đây, còn rất nhiều bài thơ Hoàng Hạc Lâu của các sứ thần khác, như Hồ Sĩ Đống tôi chưa đọc được. Điều này chứng tỏ các sứ thần Việt Nam không hề sợ thơ Thôi Hiệu, mỗi người một vẽ, hăng hái làm thơ vịnh lầu Hoàng Hạc, xin nhường lại cho bạn đọc thưởng thức và bình luận những bài thơ hay nhất về Hoàng Hạc Lâu của các bậc thi hào, khoa bảng Việt Nam.

Paris 6-11-2015
Nhất Uyên PHẠM TRỌNG CHÁNH