Hồ Quý Ly (1336-1407?)

Tiểu sử

Tổ tiên là Hồ Hưng Dật người Chiết Giang (Trung Quốc), đời Hậu Hán Ngũ đại Thập quốc (năm 947-950), tương đương thời Dương Tam Kha của Việt Nam, sang làm Thái thú Diễn Châu và định cư ở hương Bào Đột nay là Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Đời nhà Lý, có người họ Hồ lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, lấy Lê làm họ mình.

Hồ Quý Ly 胡 季 犛 là cháu bốn đời của Lê Huấn. Do có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và sinh hoàng tử nên Ly sớm được đưa vào triều đình.

Năm 1371, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng cục Chi hậu ở tuổi 35. Sau vua Trần Nghệ Tông đưa lên làm Khu mật đại sứ, gả công chúa Huy Ninh. Năm 1395 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông chết, ông được bè đảng tôn làm Phụ chính Thái sư, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước.

Năm 1400, ông dời triều đình từ Thăng Long về Tây Đô, rồi truất ngôi vua Trần, lập nên nhà Hồ, đặt tên nước là Đại Ngu. Cuối năm, Hồ Quý Ly theo cách nhà Trần làm Thái Thượng Hoàng, nhường ngôi cho con thứ Hồ Hán Thương, phong con cả Hồ Nguyên Trừng chức Tả tướng quốc. Năm 1402, thành lập 4 châu mới để củng cố phía Nam: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và đặt lộ Thăng Hoa cai trị thống nhất cả 4 châu, cử Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ này.

Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, và cho dịch các kinh Thư, Thi ra tiếng Việt. Trước đó, chính ông đã biên tập thiên Vô dật để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông.

Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như ty Y tế ngày nay). Tại các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua thóc trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.

Ông thực thi chính sách hạn điền, phân phối lại ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không được quá số quy định.

Hồ Quý Ly cũng là người đề xướng việc phát hành tiền giấy đầu tiên ở Việt Nam.

Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực bắt lính, lập phòng tuyến Đa Bang, xây thành, đóng thuyền, đúc súng, v.v... nên càng làm dân nghèo khổ.

Nhìn chung, những cải cách của Hồ Quý Ly là nhằm xây dựng Việt Nam cường thịnh, tư tưởng đổi mới của ông rất đáng trân trọng song đều không mang lại những kết quả mong đợi. Cuối năm 1406, quân Minh lấy cớ khôi phục nhà Trần tràn sang xâm lược. Sau 6 tháng kháng cự, ông và con cháu bị giặc Minh bắt ở núi Thiên Cầm (Hà Tĩnh). Theo Minh sử kỷ sự, ông vua 72 tuổi phải làm lính thú ở Quảng Tây, Trung Quốc, chết năm nào không rõ.
Trích tác phẩm

Hồ Quý Ly là người có tinh thần tự chủ cao. Đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam, ông tự hào viết nên một bài thơ:

"Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần
Y quan Đường chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần
Ngọc ủng khai tâm tửu
Kim đao chước tế lân
Niên niên nhị tam nguyệt
Đào lý nhất ban xuân"

Tạm dịch:

"An Nam muốn hỏi rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Lễ nhạc nghiêm như Hán
Y quan chẳng kém Đường
Dao vàng cá nhỏ vẩy
Bình ngọc rượu lừng hương
Mỗi độ mùa xuân tới
Mận đào nở chật vườn".

Khi còn nắm chính quyền, ông cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:

"Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
Đốn sử triều đình phong hiến khinh
Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy
Thư sinh hà sự phụ bình sinh"

Tạm dịch:

"Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Triều đình để phép bị coi khinh
Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!"

Với nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ. Hồ Quý Ly có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như sau:

"Tiền hữu dung ám quân
Hôn Đức cập Linh Đức
Hà bất tảo an bài
Đồ sử lao nhân lực"

Dịch là:

"Cũng một duộc vua hèn
Hôn Đức và Linh Đức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để người nhọc sức!".

(Bản dịch của Tuấn Nghi)

Theo gia phả họ Hồ và http://vietsciences.free.fr