Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung (1912-1977)

Hoạ sĩ, nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung quê ở làng Xuân Tảo, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Ông thuộc thế hệ họa sĩ đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và sớm nổi danh khi mới ngoài 20 tuổi. Cùng với sáng tác, ông tham gia các tổ chức yêu nước, trải qua các công việc và nhiệm vụ được giao: tham gia BCH Hội Văn hóa Cứu quốc năm 1945, Đại biểu Quốc hội Khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thành viên sáng lập của Hội Mỹ thuật Việt Nam 1957, là ủy viên Thường vụ Hội Mỹ thuật, ủy viên BCH Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Mỹ thuật Việt Nam (1962).

Hoàng Thành Đào và Nguyễn Chí Công tại Notre-Dame de Paris. Photo d’archives NCCong ©1978

Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đỗ Cung từng dạy học tại Trường tư thục Thuận Hóa cùng với Tế Hanh, Tôn Thất Đào, Tôn Quang Phiệt, Hoài Thanh. Tên tuổi ông giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử Mỹ thuật Việt Nam cận đại. Ông đã đào tạo được nhiều họa sĩ trẻ miền Nam, là một cán bộ văn hóa nhiệt thành, vô tư, liêm khiết và người đặt nền móng cho bộ chính sử Mỹ thuật Việt Nam ra đời.

Bài ca Nam tiến, 1947

Theo Bách khoa thư, ông sinh ra và lớn lên tại Hà Nội trong một gia đình trí thức, cha là dịch giả Nguyễn Đỗ Mục. Nguyễn Đỗ Cung tốt nghiệp Trường Mĩ thuật Đông Dương khoá 1929-34. Ông nghiên cứu di sản văn hoá dân tộc qua kiến trúc cổ, tìm kiếm các trào lưu nghệ thuật phương Tây đầu thế kỉ 20, thể nghiệm khuynh hướng lập thể với mong muốn tạo sắc thái mới cho hội hoạ. Năm 1940, đi Nhật tìm hiểu nghệ thuật sơn mài Nhật Bản. Từ 1941, vẽ các tranh "Cổng thành Huế", "Cổng làng" (bột màu), "Từ Hải" (khắc gỗ màu), vẽ tranh bìa cho tập "Xuân thu nhã tập".

Du kích tập bắn

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông là đại biểu Quốc hội khoá I, hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc, vẽ tranh cổ động và mẫu tiền giấy. Năm 1947, là chủ tịch Liên đoàn Văn hoá Kháng chiến của Liên khu V, vẽ tín phiếu, tranh cổ động và các tranh một màu: "Du kích La Hai", "Tiểu đội họp", "Binh công xưởng", "Nữ chiến sĩ Quảng Ngãi". Ông khẳng định nghệ thuật phải phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, mở nhiều lớp vẽ ngắn hạn, đào tạo được những hoạ sĩ có tên tuổi về sau. Ông còn là một nhà nghiên cứu uyên bác, đã viết nhiều chuyên khảo về mĩ thuật cổ đại Việt Nam. Năm 1962, được giao trọng trách thành lập Viện Bảo tàng Mĩ thuật và chỉ đạo xây dựng Nhà Bảo tàng Mĩ thuật, đã bồi dưỡng nhiều cán bộ nghiên cứu mĩ thuật qua phương pháp khảo sát các di tích mĩ thuật Việt Nam. Từ 1960, tranh sơn dầu của ông chủ yếu vẽ về đề tài công nhân: "Học hỏi lẫn nhau" (1960), "Công nhân cơ khí" (1962), "Tan ca mời chị em đi họp thợ giỏi" (1976). Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I.