Hoạ sĩ Lê Phổ (1907-2001)

Gần sáu năm sau ngày Lê Phổ qua đời, tác phẩm của ông hiện được giới sưu tập và kinh doanh tác phẩm nghệ thuật săn tìm, được định giá cao tại các cuộc bán đấu giá gần đây nhất. Cho tới nay, có lẽ chưa có hoạ sĩ Việt Nam nào vẽ được nhiều tranh và có tranh bán với giá cao như Lê Phổ. Tháng 9-2007, gallery Leslie Hintman đã định giá bức Thiếu phụ trong vườn, tranh sơn dầu trên lụa, khổ 104,1 x 83,8cm của Lê Phổ là 30.000 - 50.000 USD. Ngay các tranh khổ nhỏ của ông (cỡ 46,4 x 27,3cm) đều được bán với giá khoảng 6.000 - 8.000 USD. Chỉ riêng trên ArtNet trong thời gian qua đã có tới 370 bức của Lê Phổ được rao bán trên mạng.

Hoài cố hương

Còn nhà Christie’s ở Hong Kong đã chuẩn bị cho một cuộc đấu giá tranh Đông Nam Á quan trọng sẽ diễn ra vào mùa xuân năm sau, trong đó có bức tranh lụa của thời kỳ đầu sáng tác của hoạ sĩ Lê Phổ vào loại rất quý hiếm, hiện thuộc sưu tập tư nhân tại châu Á; bức Mẹ và các con - thể hiện một bà mẹ đang chơi đùa với ba đứa con, theo ước tính sẽ bán với giá từ 102.000 - 128.000 USD; hai bức tranh sơn dầu còn lại cũng có thể được bán với giá trên 50.000 USD mỗi bức. Cách đây gần mười năm, bức Cho chim ăn của Lê Phổ đã được bán với giá kỷ lục là gần 100.000 USD.

Lê Phổ sinh ngày 2-8-1907 tại Hà Đông trong một gia đình thế tộc (cha là Lê Hoan từng làm kinh lược sứ Bắc kỳ); nhưng Lê Phổ lại chọn con đường nghệ thuật và thi vào khoá đầu tiên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Thuộc về một nhóm sinh viên “tinh hoa” của khoá, Lê Phổ được hiệu trưởng Victor Tardieu và giáo sư Joseph Inguimberty trực tiếp hướng dẫn trong suốt năm năm học. Chính Victor Tardieu, với phương châm “Bảo tồn tính dân tộc” trong giảng dạy hội hoạ, đã khuyến khích các học trò Việt Nam của ông vẽ tranh với các chất liệu truyền thống là lụa và sơn mài. Do vậy, trong thời kỳ đầu sáng tác, Lê Phổ chỉ thuần vẽ tranh lụa.

Thiếu nữ hái hoa

Năm 1928, Lê Phổ đã có triển lãm tranh đầu tiên tại Hà Nội cùng với các bạn học cùng khoá với ông là Vũ Cao Đàm và Mai (Trung) Thứ. Ba năm sau (1931), chàng hoạ sĩ 24 tuổi Lê Phổ đã được cử làm phụ tá cho giáo sư Tardieu tham dự triển lãm đấu xảo thuộc địa tại Paris. Năm 1932, ông được học bổng vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris. Từ Pháp, ông đi khắp châu Âu và khám phá khuynh hướng Nabi [1], sau này có ảnh hưởng quan trọng đến hội hoạ Lê Phổ vốn trước đó chịu ảnh hưởng của trào lưu Ấn tượng.

Năm 1933, Lê Phổ trở về nước, giảng dạy tại trường Mỹ thuật Đông Dương nhưng năm sau lại du hành sang Trung Quốc để tìm hiểu, học hỏi thấu đáo về hội hoạ cổ điển Trung Hoa. Đến năm 1935, ông trở thành hoạ sĩ vẽ chân dung Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương và trang trí nội cung của Hoàng thành Huế.

Năm 1937, ông trở lại Paris với tư cách giám đốc nghệ thuật khu vực Đông Dương của Triển lãm quốc tế và định cư luôn ở Pháp cho tới ngày cuối đời. Năm 1938, Lê Phổ lần đầu tiên bày tranh tại Paris, và từ đó tham dự nhiều cuộc triển lãm tranh ở khắp nơi trên thế giới.

Lòng mẹ

Có người chia hội hoạ Lê Phổ thành hai thời kỳ, tương ứng với hai loại chất liệu ông yêu thích là lụa và sơn dầu, thời kỳ đầu được gọi là “cổ điển” - tranh lụa; và thời kỳ sau là “lãng mạn” - tranh sơn dầu; mỗi thời kỳ đều có sự kết hợp các ảnh hưởng Đông và Tây mà ông tiếp thu từ nhà trường cũng như từ các chuyến đi tìm hiểu các chân trời nghệ thuật từ Tây sang Đông.

Nhưng dù có sử dụng chất liệu gì, chịu ảnh hưởng trào lưu hội hoạ phương Tây hay quốc hoạ Trung Hoa, vẫn có thể thấy khá xuyên suốt trong gia tài nghệ thuật khổng lồ của Lê Phổ cái hồn vía Việt Nam, cho dù ông gần như suốt đời sáng tác ở xa quê.

Trong tranh Lê Phổ, dù vẽ lụa hay sơn dầu, đều có hình bóng những phụ nữ Việt - cho dù ông chung sống với bà Paulette Vaux, một nhà báo làm việc cho tờ Time và tờ Life. Đó là người thiếu nữ đọc thư tình trong vườn, những cô gái giặt giũ và phơi áo, những mỹ nhân tươi thắm bên hoa, những người đẹp say sưa bên trang sách, những tiểu thư khuê các đang điểm trang dung nhan… và rất nhiều những mẹ và con - tình mẫu tử đặc trưng Á Đông, đặc trưng Việt Nam. Và dù xem mãi những tranh ấy, người ta vẫn không cảm thấy nhàm chán, tẻ nhạt bởi cái đẹp cứ lung linh, ảo diệu, mơ hồ mà lại quấn quýt, gắn bó, gần gũi lạ lùng…

Từ năm 1963, gallery Wally Findlay ở Mỹ trở thành người đại diện cho Lê Phổ để giới thiệu và quảng bá tác phẩm của ông trên thị trường Mỹ và cả châu Âu. Từ đó, tranh Lê Phổ được đưa vào nhiều cuộc đấu giá của các nhà đấu giá quan trọng nhất, càng thúc đẩy ông sáng tác nhiều hơn. Một số nhà sưu tập, chủ gallery tại TP.HCM đã từng mua được tranh khổ nhỏ của Lê Phổ tại các phiên đấu giá.

Tranh Lê Phổ còn được trưng bày ở Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở Paris, một thánh đường của những người yêu mến nghệ thuật khắp nơi trên thế giới.

Theo DIÊN VỸ (DNSGCT)


Thiều quang Lê Phổ

Tác phẩm của Lê Phổ và những hoạ sĩ Việt Nam xuất dương cùng thời với ông những năm 40: Mai Thứ, Vũ Cao Ðàm, Lê Thị Lựu... không mô phỏng nghệ thuật Ðông - Tây một cách ước lệ mà nối tiếp truyền thống giao hưởng trong Ấn Tượng, phối hợp hai phong cách, hai vũ trụ nhân sinh. Cái làm cho hội hoạ Pháp và sau đó Mỹ, công nhận giá trị của các hoạ sĩ Việt Nam, là họ đã không chối bỏ nguồn gốc của mình như một vài hoạ sĩ Nhật Bản đương thời: Nishimoura, Okamoto... cùng xuất thân từ trường phái Paris. Sự thành công của những hoạ sĩ Việt Nam đầu tiên bên trời Âu, sau thế chiến, đã không dễ dàng, đã trải nhiều cay đắng. Họ xác định chỗ đứng của nghệ thuật tạo hình giao thoa Ðông-Tây mà Lê Phổ là một giá trị đích thực.

Năm 1932, khi vào trường Mỹ Thuật Paris, tiếp xúc với những trường phái tân kỳ thời đó như Lập Thể, Siêu Thực, Trừu Tượng... Lê Phổ hoang mang và nghi ngờ tất cả những gì đã gặt hái được từ trước về hội hoạ. Di tích còn lại của sự hoang mang ấy là bức tranh phong cảnh Fiesole, sơn dầu, 1932, rất Tây phương, rất "trường phái Paris". Từ Pháp, năm ấy, ông đi một vòng Âu châu qua Bỉ, Hoà Lan, Ý, thăm các bảo tàng viện Bruges (Bỉ), Cologne (Ðức) và Florence (Ý). Tiếp xúc với hội hoạ Phục Hưng, Lê Phổ tìm ra những nét trùng hợp giữa hội hoạ cổ điển Tây Phương và hội hoạ cổ truyền Trung Quốc. Về Việt Nam năm 1934, rồi từ Việt Nam Lê Phổ sang Bắc Kinh để tìm hiểu hội hoạ Tống, Minh... Cuộc hành hương này đã mở đường cho một tiến trình hơn nửa thế kỷ hội hoạ, có thể phân chia làm hai giai đoạn:

. 1. Thời kỳ cổ điển (tranh lụa): Từ 1934 đến 1944, 45. Những bức Người Thiếu Phụ Ngồi (1934) và Chim Ngói (1937), ảnh hưởng hội hoạ đời Tống. Ðường nét thanh thoát, uyển chuyển, mềm mại. Không gian phẳng, màu lì (aplat), từng mảng đồng màu đồng sắc, nét bút tinh vi. Tác phẩm vừa quyến rũ vì những mong manh tế nhị trong nét bút, vừa lạnh lùng vì dùng độc sắc (camaieu), tạo không khí thuần khiết, chay tịnh, ơ hờ; vừa mang dung sắc nghiêm phong của xã hội Việt Nam còn nhuần nhuyễn đạo lý Khổng Mạnh, đầu thế kỷ.

Vài năm sau, Lê Phổ đổi hướng: Những bức Mẹ Con (1938), Thiếu Nữ Và Hoa Lan (1938), Thiếu Nữ Và Hoa Hồng (1941), Tử Vì Ðạo (1941), Chải Ðầu (1942)... thuộc thời kỳ Thánh giáo, dung hoà nghệ thuật Trung Hoa và hội hoạ Ý: nét bút tế nhị, thanh tao. Không gian hai chiều, người phụ nữ trong tranh trang nghiêm tôn giáo, dáng dấp thiên thần Botticelli, mặt trái xoan, tóc đen, cổ Modigliani, u buồn và huyền bí. Dù nấp dưới bóng Ðức Mẹ đồng trinh hay hiện hình khỏa thân gợi cảm, những người đàn bà trong tranh Lê Phổ luôn luôn phảng phất vẻ trầm tư, tĩnh lự của một Quan Thế Âm Bồ Tát trong tư thế tham thiền nhập định.

Thời kỳ tranh lụa, tất cả nghiêng trong không gian cổ điển. Lê Phổ dùng sắc đạm, màu thiền, màu lạnh và phân chia rõ ràng biên giới: đen - trắng, thiên đàng và địa ngục. Ðây có thể gọi là thời kỳ "thủy mạc" của hoạ sĩ: Hương thiền, hương đạo thấm vào bút lông, biến người phụ nữ trong tranh dù có khỏa thân, cũng khỏa thân "vô tội", "khỏa thân bên cạnh Ngọc Hoàng" -như lời hát Phạm Duy- một thứ thánh nữ đồng trinh. Bất khả xâm, bơ vơ trong vườn địa đàng, u buồn mà vẫn hướng thượng. Những đạm thanh, tinh khiết ấy làm tăng vẻ não nùng tâm trạng "nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình" của một tần phi đã bị bỏ quên trong vách quế, ngập gió vàng với mảnh vũ y lạnh ngắt.

. 2. Thời kỳ lãng mạn (Tranh sơn dầu): Nếu có dịp hỏi các hoạ sĩ Lê Phổ, Vũ Cao Ðàm: Tại sao đang vẽ tranh lụa lại đổi sang sơn dầu thì cả hai đều trả lời: Vì tranh lụa có những giới hạn về khuôn khổ, màu sắc và thể lượng, khó diễn tả được hết những điều muốn vẽ. Vậy những điều muốn vẽ, muốn diễn tả của Lê Phổ, sau thời kỳ tranh lụa là gì? Hoạ sĩ muốn bước ra khỏi vòng đạo lý: người phụ nữ trong thời kỳ này dần dần trút bỏ lớp áo "tiết hạnh khả phong" để đi vào thế giới lãng mạn của tình yêu, và tranh cũng từ vùng âm u bước ra ánh sáng.

Dù Lê Phổ đã gặp gỡ hội hoạ Ấn Tượng ngay từ lúc vào trường Mỹ Thuật, nhưng chỉ đến những năm 40, Lê Phổ mới thực sự rời bỏ nghiêm lệnh chính xác của trường phái cổ điển để bước vào thế giới phiếm định phôi pha của vũ trụ thiều quang màu nhòe. Trong kỷ nguyên Ấn Tượng, Cézanne đã mở thế giới mới về thể (volume),
Monet kiến tạo chân trời ngũ sắc và ánh sáng. Lê Phổ đã bỏ rơi cả thể, lẫn màu và ánh sáng trong suốt đoạn đường mười năm tranh lụa cổ điển, mười năm tìm lại "lối xưa xe ngựa hồn thu thảo".

Phải đến những năm 50, bút vẽ của Lê Phổ mới sực tỉnh, sáng ra. Không còn ngần ngại trước những "quá độ" trong màu nguyên chất (không pha) của Matisse, Lê Phổ bước qua Dã Thú (Fauvisme) vào Ấn Tượng rồi ngừng lại ở Linh Cảm (Nabis). Tiếp xúc với hội hoạ Bonnard, Dufy, Matisse, từ những năm 37, nhưng ảnh hưởng Bonnard chỉ đến sau này, càng về sau, tranh Lê Phổ càng đa sắc, càng đằm thắm, đắm say, vũ trụ vàng của Bonnard lây sang Lê Phổ. Ba màu: lam, cẩm thạch, vàng được ghi lại như những thời kỳ son trong hội hoạ Lê Phổ. Cuối cùng vàng được giữ lại như nội tại của không gian, chiếu thêm quang độ và coi như chính sắc của Lê Phổ: vàng diệp, vàng anh, vàng sen, vàng lá, vàng hoa, vàng quả, vàng áo, vàng nước, vàng mây... Ở đây, vàng nhớ Bích Khê, "Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông".

Giao thoa giữa Ấn Tượng và Linh Cảm, chìm đắm trong không gian lãng mạn, mà hình hài chỉ là hình thức cụ thể hoá không gian và ánh sáng bằng màu sắc. Người phụ nữ trong tranh nhập nhòe, thấp thoáng "sương in mặt, tuyết pha thân" mang dáng dấp kiêu sa của người con gái Hà Thành thời Tự Lực Văn Ðoàn, đoan trang và đài các, nhưng không còn thể hiện như những bức chân dung đẹp, giống, rõ và sắc nét như tranh cổ điển mà họ đã trở thành biểu tượng của cái đẹp: một bóng hình dễ vỡ, dễ phai, dễ tan loãng trong không gian và chính cái không gian ấy cũng lại phù du mộng ảo. Những bức Hai Mẹ Con (1960), Trầm Tư (1968), Thiếu Nữ Áo Xanh (1968), Trong Vườn (1970)... không gian hai chiều chia nhịp với những động rung màu sắc. Màu ở đây là màu ấm, sắc nồng, từ vàng chanh sang cẩm thạch đến thiên thanh... chính sắc, tạp sắc, chen lẫn trong thế giới mơ màng, gây lạc cảm cho thị giác dù chỉ trong khoảnh khắc mà mời gọi thiên thu.

Tranh Lê Phổ không nghiêng về "nội tâm" như một số hoạ sĩ Linh Cảm, nhưng ông vẫn gần họ ở chỗ: tranh là hình thức trang trí, tranh để treo tường (il n’y a pas de tableau, il n’y a que des décorations - Verkade). Treo tường thì hà tất phải có bề sâu? Quan niệm không cần "viễn hoạ" này, thoát thai từ hội hoạ Trung Quốc, trùng hợp với Linh Cảm (Nabis), sống trong tác phẩm Lê Phổ từ 1950 và trải dài trong nhiều thập kỷ, không thay đổi. Hiện diện trong không gian hai chiều, dưới hình thức trang trí, dù tĩnh vật, thiên nhiên hay con người, trong bối cảnh nào, hoạ phẩm Lê Phổ cũng ngỏ cửa vào một thiên đường viễn mơ, phiếm định.

Thụy Khuê

  • Lê Phổ sinh ngày 2-8-1907 tại Hà Ðông. Cha ông là Lê Hoan, Kinh lược sứ (Vice Roi) Bắc kỳ. Nhập học khoá đầu tiên trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Hà Nội năm 1930.
  • 1928: Triển lãm chung với các hoạ sĩ Vũ Cao Ðàm và Mai Thứ tại Hà Nội.
  • 1931: Ðược cử làm phụ tá giáo sư Tardieu dự triển lãm đấu xảo thuộc địa tại Paris.
  • 1932: Ông được học bổng vào trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Paris. Từ Pháp đi khắp Âu Châu. Triển lãm tranh tại Roma.
  • 1933: Lê Phổ trở về Hà Nội làm giáo sư tại trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật và triển lãm tranh tại Hà Nội.
  • 1934: Sang Bắc Kinh tìm hiểu hội hoạ Trung Quốc.
  • 1935: Vẽ chân dung Bảo Ðại, hoàng hậu Nam Phương và trang trí nội cung.
  • 1937: Tham dự triển lãm quốc tế ở Paris với tư cách giám đốc nghệ thuật khu Ðông Dương và ở hẳn lại Pháp.
  • 1938: Triển lãm lần đầu tại Paris, và từ đó tham dự nhiều cuộc triển lãm tranh ở khắp nơi trên thế giới.
  • 6-1947: Thành hôn với Paulette Vaux, ký giả báo Time và Life. Có hai con trai: Lê Kim - nhiếp ảnh gia và Lê Tân - hoạ hình.
  • 1950-1954: Lê Phổ làm Cố vấn mỹ thuật cho Toà Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Pháp.
  • 1957 và 1958: Triển lãm chung với Foujita ở Lyon, Avignon, Nice và Bordeaux.
  • Hoạ phẩm của Lê Phổ được trưng bày ở Musée d’Art Moderne ở Paris, Musée d’Oklahoma (USA) và trong nhiều sưu tập nghệ thuật tư nhân, phần lớn ở Hoa Kỳ.
  • Hoạ sĩ Lê Phổ mất tại Paris, quận 15, tháng 12 năm 2001.

[1Tiếng Do Thái cổ, có nghĩa là tiên tri, linh cảm. Khuynh hướng Nabi có các đại biểu ưu tú là Pierre Bonnard, Edouard Vuillard, Maurice Denis…