Làng Thổ Quan

Village

Bên trong khu vực các phố Khâm Thiên, Hàng Bột và đê La Thành là làng Thổ Quan - một làng cổ đã được đô thị hóa từ trên 50 năm nay.

Làng Thổ Quan nằm ở nửa cuối phố Khâm Thiên - từ ngã ba vào ngõ Văn Chương đến ngã năm Ô Chợ Dừa, kéo xuống phía Nam giáp các làng Kim Liên, Xã Đàn, Trung Tự. Hai ngàn năm trước, nơi đây từng là chốn dựng chiến lũy dưới ngọn cờ khởi nghĩa của hai nữ kiệt Trung Vương, do ba chị em họ Nguyễn (Đào?) người xứ Thanh Hóa lãnh đạo chống lại quân Mã Viện sang tái chiếm nước ta. Còn đó những địa danh như Bãi Trận, Xốc Súng, Ngõ (ống) Lệnh, Hồ Đồn nhắc nhở lại di chỉ quân sự của người xưa. Đình Thổ Quan cùng với đình - đền Trung Tả, chùa Linh ứng là ba di tích đã được xếp hạng quốc gia ngày 21-6-1993, nay đều thuộc phường Thổ Quan.

Trong đình còn tấm bia lập năm 1930 ghi lại sự tích ba vị nói trên, trong đó có những dòng: “Kinh qua trăm trận đại phá quân giặc, đến trận sông Hát, quân ít tướng cô, đành lui về giữ Thổ Quan, dựng ba đồn chống địch... Sau khi mất, dân làng nhớ công đức, dựng đình phụng thờ, các triều đại đều phong tặng, lời biểu dương sáng ngời...”. Ba vị được phong “Thượng đẳng phúc thần” với các bài vị đề: Hiển Hựu đại vương, Quý Minh đại vương, Phương Dung công chúa. Dân làng Thổ Quan gốc vẫn còn kiêng húy, gọi Hựu là Hạo, Minh là Miêng, Dung là Dang.

Làng Thổ Quan vốn gồm hai bộ phân cư dân gốc, khác nhau về đơn vị hành chính, sau hợp thành vào giữa thế kỷ XIX. Đó là thôn (có sách chép là giáp) Quan Thổ (ở phía Tây phố Hàng Bột) của tổng Hữu Nghiêm (huyện Thọ Xương) và thôn Quan Trạm (phía Đông phố Hàng Bột, phía Nam phố Khâm Thiên) thuộc tổng Hạ (huyện Vĩnh Thuận). Sau khi hợp nhất, làng (cũng là xã) Thổ Quan thuộc tổng Yên Hòa, huyện Thọ Xương, Năm 1899, làng thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội, từ đầu năm 1915, thuộc huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông; từ đầu năm 1943, toàn bộ huyện Hoàn Long chuyển thành Đại lý Đặc biệt Hà Nội là đất nhượng địa của thực dân Pháp.

Năm 1945 Thổ Quan thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội; trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, làng thuộc quận Ngã Tư Sở của chính quyền tạm chiếm. Hoà bình lập lại, làng thuộc quận VI ngoại thành Hà Nội. Từ năm 1961, làng được chia thành nhiều tổ dân phố (từ năm 1974 hợp thành một Tiểu khu) thuộc khu phố Đống Đa; từ năm 1981, tiểu khu này chuyển thành một phường thuộc quận Đống Đa.

Làng Thổ Quan xưa kia có địa dư khá rộng, song phần lớn là ao hồ, dân cư rất thưa thớt (năm 1928 chỉ có 381 nhân khẩu). Một bộ phận lớn dân làng vốn từ Châu Ái (nay là tỉnh Thanh Hóa) chuyển cư ra. Các hộ gốc và đông đinh là : Nguyễn Đình, Nguyễn Thế, Lê, Trịnh, Ngô. Lúc đầu, dân cư tập trung ở các xóm : Đình, Tre (cạnh Ô Chợ Dừa), Hàng Chiếu, Nam Thái (Quan Thổ), mỗi xóm chỉ hai chục nóc nhà.

Vào những năm 30 của thế kỷ XX, làng hình thành một xóm mới, do những người Hoa lập ra nên gọi là xóm Hoa Kiều, hay Trại Khách. Họ mua hoặc thuê đất dựng nhà để cho thuê hoặc lập cửa hiệu buôn bán, lập các lò làm bánh mỳ hay mở sòng bạc.

Dân làng Thổ Quan xưa kia sống bằng nghề trồng rau muống, thả cá trong các ao hồ. Đến đầu thế kỷ XX, một số người làng ra phố làm thợ sản xuất đồ sắt (các khung cửa sổ, song sắt…). Dân làng ít người theo đuổi việc học, thời Pháp thuộc chỉ có vài người có bằng trung học. Dân làng lại phát về ngạch võ, có nhiều người đi lính. Sau khi người Hoa thuê đất mở các sòng bạc, nhiều người đã sa vào cờ bạc bị phá sản, phải bán cả ruộng, đất. Xưa kia làng rất nghèo.

Từ sau hòa bình lập lại, dân cư các nơi về sống ở làng Thổ Quan ngày một nhiều, ao hồ bị lấp dần. Có một số công trình văn hóa được dựng tại địa phận làng, trong đó tiêu biểu nhất là rạp chiếu bóng Dân Chủ.

Đêm 25, rạng sáng ngày 26 - 12 - 1972, máy bay Mỹ ném bom vào khu vực phố Khâm Thiên, làng Thổ Quan cũng bị thiệt hại nghiêm trọng .

Theo TS Bùi Xuân Đính