Làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang)

Có hai thứ khiến khách dễ biết đến xã Vân Hà (huyện Việt Yên, Bắc Giang): đó là rượu làng Vân và gốm làng Thổ Hà, bởi vì cả hai thứ này đã từng nổi tiếng khắp vùng và trở thành nghề duy trì cuộc sống của người dân trong xã.

Một ngày đông se lạnh, tôi tìm về làng gốm. Qua bến đò Thổ Hà dừng chân bên hữu ngạn sông Cầu, nơi con đò nhỏ đưa qua đất Thổ Hà, tôi đã cảm thấy được vẻ đẹp của sông nước, mây trời nơi đây. Sông Cầu thật êm ả, hiền hòa.

Làng Thổ Hà tồn tại như một ốc đảo trên diện tích khoảng 20ha. Ngôi làng bị ngăn cách với thế giới bên ngoài bởi dòng sông Cầu và hồ ao, đồi núi lớn nhỏ. Có lẽ cũng vì vậy mà nó còn lưu giữ được nhiều nét cổ xưa của một làng nghề miền Bắc Việt Nam. Nghề làm gốm Thổ Hà xuất hiện từ thế kỷ XIV. Với địa thế thuận lợi là làng ven sông, nơi đây nhanh chóng trở thành một thương cảng tấp nập của vùng Kinh Bắc. Sự hưng thịnh của nghề gốm đã giúp người dân xây dựng một quần thể kiến trúc đình chùa bề thế uy nghi.Trên bia "Thủy tạo đình miếu" dựng năm 1692 có ghi "... địa hình sơn thủy, Thổ Hà eo ở phía đông giống như hình con rồng quay lại chầu chốn Tổ. Ở phía tây tựa hình con hổ ngồi chầu về tôn miếu. Ở phía nam thì đỉnh non nguyệt ghi rõ trong sách trời..." Phải chăng địa thế ấy đã giúp cho Thổ Hà trở thành một làng nghề thịnh vượng bậc nhất thời bấy giờ?

Làng Thổ Hà xưa kia là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa có tiếng nhất của người Việt. Dấu vết của làng gốm còn lại là những mảng tường nhà, hàng rào, đường làng xây hoàn toàn bằng các phế phẩm gốm khiến làng mang dáng dấp một phế đô gốm. Theo gia phả làng nghề và những mẫu hiện vật khảo cổ được tìm thấy thì Thổ Hà là một trong những chiếc nôi của nghề gốm sứ. Sản phẩm của làng nghề đã có thời nổi danh khắp thiên hạ. Từ lúc có nghề gốm đến đầu những năm 90 của thế kỷ 20, cả làng chỉ sống bằng nghề gốm.

Ðồ gốm Thổ Hà được nung ở nhiệt độ cao nên đã thành sành, gốm màu nâu sẫm, thâm tím đanh mặt, gõ trên gốm tiếng kêu coong coong như thép, mảnh gốm có cạnh sắc như dao, đựng chất lỏng không bao giờ thấm qua, đựng chất rắn đầy chặt không bao giờ ẩm mốc. Nhờ có nghề làm gốm mà cuộc sống của người dân trước đây hơn hẳn nhiều nơi khác. Người Thổ Hà vắt đất nhào nặn thành nhiều mặt hàng, từ đồ nặn các cỡ, có thể chứa 350 lít nước, đến chĩnh, chõ, chum, vại... Nhiều làng nghề huyện Quế Võ khi đồ xôi cho hội xuân, nhất định phải có chõ sành của Thổ Hà mới ưng ý. Vì thế mà gốm của làng nổi danh khắp thiên hạ và kéo theo hẳn làng Vọng Nguyệt cùng xã đã từng chỉ chuyên làm thuê, chở hàng thuê cho Thổ Hà.

Từ mấy thế kỷ trước, gốm Thổ Hà theo thuyền bè xuôi ngược sông Cầu đến mọi miền đất nước. Vậy mà giờ đây, dấu tích nghề gốm thịnh vượng xưa kia dường như chỉ còn vương lại trong ký ức của những nghệ nhân cao tuổi, bảng lảng đâu đó trên bức tường những ngôi nhà cổ được dựng nên bởi vô vàn mảnh gốm vỡ mà vững chãi qua mấy trăm năm. Cách Hà Nội gần 50km, phía bên kia con sông Cầu thơ mộng, ngôi làng cổ Thổ Hà đã từng sống một thời vàng son nhưng không ít người đang lo ngại rằng, trong một ngày không xa, ngôi làng cổ kính ấy có thể sẽ mất đi...

Mất nghề, cả làng lao đao

Trong suốt quá trình phát triển, gốm Thổ Hà luôn đi đầu trong việc sản xuất đồ gốm gia dụng. Hầu hết các gia đình ở đất Bắc đã từng có một hoặc hai sản phẩm của làng này trong nhà mình.

Sau 1959, làng nghề chuyển dần thành hợp tác xã, rồi thành xí nghiệp gốm Thổ Hà. Sản phấm chủ đạo là gốm sành các loại: chum, vại, ống máng nước... theo dòng sông Cầu toả đi khắp đất nước. Thế nhưng cuối những năm 1980 VN bước sang nền kinh tế thị trường, nghề làm gốm ở đây không thể trụ vững, chỉ còn một vài gia đìnn duy trì sản xuất, bởi sản phẩm không có nơi tiêu thụ. Đến năm 1992, nhà kho, xưởng gốm được thanh lý, nghề gốm Thổ Hà thực sự mất hẳn sau gần 6 thế kỷ tồn tại và phát triển. Những năm đó, cũng giống như bao làng nghề truyền thống khác, gốm Thổ Hà rơi vào tình trạng sản phẩm làm ra không bán được và mai một dần. Do thị hiếu, nhu cầu trên thị trường thay đổi mà những sản phẩm gia dụng không còn phù hợp. Sản phẩm làm ra cứ chất đầy sân, đầy nhà. Rồi không trụ được, cả xí nghiệp và hợp tác xã cứ tan rã dần. Và lò gốm đã ngừng đỏ lửa cho đến gần đây.

Ông Nguyễn Bá Quyền, Trưởng thôn Thổ Hà ngậm ngùi nói: "Mất nghề đồng nghĩa với mất nghiệp. Từ lúc hình thành làng cho đến tận bấy giờ, dân Thổ Hà không làm gì khác ngoài nghề gốm. Mất nghề cả làng lao đao. Vì cả làng không có lấy một tấc ruộng. Ðất ở thì khá chật hẹp bình quân mỗi nhà được hơn 50 m2. Mất nghề cũng đồng nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập chính. Sản phẩm làm ra không bán được, đành bỏ nghề để tìm kế sinh nhai...". Nói đến đây, ông Quyền buồn lắm, vừa vân vê điếu thuốc lào hút một hơi thật sâu để nén cái thở dài. Ông nói: "Hậu quả của việc mất nghề vẫn đeo đẳng người dân Thổ Hà đến ngày nay. Làng đã xoay đủ nghề nào là chạy chợ, làm miến dong, bánh đa nem... giật gấu vá vai vậy mà vẫn thiếu ăn...". Cả thôn có 3.248 khẩu thì có tới 70% là thiếu ăn. Cả làng đều trong tình trạng ăn đong".

Gần một nghìn con người phải loay hoay đi tìm nghề mới. Trong khoảng thời gian từ năm 1990-2000 thì cả làng không còn ai làm gốm nữa. Trong “cơn gió lốc” của thị trường, do không kịp chuyển mình để thích ứng, nghề gốm ở Thổ Hà đã ngày càng mai một đi.

Cách tân để tồn tại

Giữa những lò than rực lửa chuyên tráng bánh đa nem, làm mỳ gạo của làng Thổ Hà, xã Vân Hà, Việt Yên, Bắc Giang, chúng tôi bất ngờ gặp một lò gốm chứa đầy sản phẩm đang nhả khói, hình ảnh mà chỉ cách đây hơn chục năm về trước mới thấy. Đó là lò gốm của một cựu chiến binh—ông Cáp Trọng Tuất, một người đã từng đảm nhiệm vai trò chủ nhiệm Hợp tác xã gốm Thổ Hà những năm 1957-1960.Nhớ nghề cũ, năm 2002, ông Tuất quyết định trở lại với nghề làm gốm. Tìm cả làng không còn một lò nung, sân phơi gốm ngày xưa đã được san đi làm nhà ở. Vậy là ông phá hai gian nhà ngang để xây lò nung gốm. Chỉ một cái lò con con mà cũng ngốn của ông 30 chục triệu đồng. Đất chật nên cái cửa lò gốm đành phải để thông với một gian buồng vì không có cách nào khác được. Có lò rồi nhưng mỗi năm ông Tuất cũng chỉ đốt được một hai lò gốm. Không phải vì gốm làm ra không bán được, không phải vì ông thiếu tiền đầu tư mà đơn giản vì ông đã già, các con ông lại đi làm ăn xa và không có ai biết nghề của cha mẹ, một mình ông xoay sở sao cho được? Trong suy nghĩ, băn khoăn khi tuổi già đã sầm sập đuổi sau lưng, ông lo rằng, chẳng bao lâu nữa, những lớp người còn biết nghề như ông mất đi, ai sẽ nối nghiệp để khôi phục nghề làm gốm? Một nghề mới muốn “cấy” được ở một làng quê có khi mất vài chục năm mà chưa chắc đã thành. Vậy mà một nghề truyền thống đã tồn tại qua vài thế kỷ, nay lại để thất truyền thật đáng tiếc lắm thay. Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Bá Quyền, trưởng thôn Thổ Hà cho biết: “Đúng là bây giờ khôi phục lại nghề gốm thật khó, đất ở đây chật chội nên thiếu mặt bằng để xây dựng lò gốm và sân phơi, cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư cho nghề này tương đối lớn, sau bao năm vắng bóng trên thị trường, tìm đầu ra cho sản phẩm gốm không phải dễ dàng, đội ngũ những người nắm được kỹ thuật làm gốm đang ngày càng ít đi. Phải khắc phục được những khó khăn đó mới mong khôi phục được những lò gốm Thổ Hà”.

Lửa gốm Thổ Hà bây giờ chỉ còn leo lét, mỗi năm ngọn lửa ấy chỉ cháy lên vài lần trong chiếc lò nung bé nhỏ của gia đình ông Tuất. Nhưng như thế cũng có nghĩa là hy vọng phục hồi nghề này còn chưa tắt...

Lượt sản phẩm chủ đạo đầu tiên ra lò gồm: bát hương tạo hình cánh hoa sen, tiểu quách có mái che, bộ trang trí trụ cổng có gắn đèn, be nậm rượu và đôn, chậu cảnh các loại... Đặc biệt, một số loại be nậm rượu phục chế từ nguyên mẫu be rượu cổ được khách hàng từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... về đặt mua với giá khá cao. Ông Tuất cho biết cũng đã thu lãi. Đây quả là một sự khởi đầu hứa hẹn nhiều thành công.

Gốm của Thổ Hà để nghìn năm không bị mất màu và tự chảy ra men do kỹ thuật nung tốt. Ông Tuất vào buồng bê mấy bát hương giả cổ vừa cho ra lò. Ông nói: "Bước đầu làm ra bán được. Tất nhiên đây mới là bước thử nghiệm, nhưng có một điều tôi khẳng định chắc chắn rằng, nếu phục chế được trên 20 mẫu đồ thờ theo thời Lý, Trần thì chắc chắn làng gốm sẽ chuyển sang một giai đoạn khác". Ông nói thêm như để chứng minh: "Lúc đầu làm ra, tôi cũng không tin lắm. Sau đó một thời gian, có mấy vị khách Nhật Bản đến tham quan cũng đưa ra nhận xét là "gốm ở đây hơn nơi khác là không phải dùng men. Nay lại có thêm nhiều mẫu giả cổ có hoa văn khác lạ...". Tôi làm được vài mẫu, bước đầu bán được. Nhưng do bỏ nghề một thời gian quá lâu, nên chất lượng chưa bằng được gốm ngày xưa. Nếu chỉnh chu hơn về mặt kỹ thuật, vấn đề đầu ra cho gốm Thổ Hà không phải là chuyện quá khó nữa".

Công việc này đâu riêng gì ông Tuất tiến hành, mà ở làng có cả những bậc kỳ cựu như ông Nguyễn Ðức Ngoạn, Trịnh Ðắc Thông, Nguyễn Ðức Sinh... đến nhà ông Tuất tham gia khôi phục lại nghề gốm. Ông Sinh nói: "Nếu nói làng gốm đã hồi sinh thì hơi sớm. Nhưng tôi có thể khẳng định nếu gốm Thổ Hà có sự cách tân đôi chút về mẫu mã thì trong thời gian không xa, làng gốm sẽ hồi sinh. Thế mạnh của gốm Thổ Hà nung trong bảy ngày, bảy đêm, nên là gốm sành. Và nhiều mẫu cũ có giá trị được cải biên cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Nhiều tay chuyên đi săn đồ giả cổ đã tìm về tận đây xem hàng. Nếu chúng tôi phục chế được chất lượng gốm như trước thì sẽ mở ra một hướng đi cho làng...

Theo Gia Dũng (saigonnet)