NÊN CHĂNG DẠY CHỮ HÁN Ở BẬC HỌC PHỔ THÔNG?

Nguyễn Hải Hoành

Trên báo đài và các mạng xã hội đang rộ lên cuộc tranh luận về kiến nghị dạy chữ Hán trong trường phổ thông nhằm “giữ gìn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam”. Dư luận chia làm bên ủng hộ và bên phản đối (sau đây gọi là bên A và bên B).

Bên A gồm một số học giả Hán-Nôm. Bên B gồm nhiều tầng lớp, học giả, cán bộ, dân mạng… đều có. Trên mạng xã hội, một số người tỏ ý nghi ngờ động cơ chính trị của bên A. Sau đó nhân vật chính bên A vội vã viết Lời tạm kết cho cuộc tranh luận mới chỉ diễn ra có mấy ngày (27/8-2/9), nhận xét các ý kiến phản đối chủ yếu xuất phát từ tâm lý thực dụng, tâm lý đám đông và chống Trung Quốc, một số người “cứ hè nhau mà chửi… chửi hết những người có bằng cấp, giáo sư…, hệt như những người chưa hề đến trường (tức vô học)”.

Về cơ bản, điểm xuất phát của cuộc tranh luận là không sai. Bên A muốn qua đó đạt mục tiêu gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt và kế thừa nền văn hóa truyền thống tổ tiên để lại, chứ không phải xuất phát từ động cơ thân TQ hoặc muốn trở thành “Hán nô”... Thực ra một số học giả bên A đang dẫn đầu xu hướng tực cho là “Thoát Trung”. Bên B phần lớn xuất phát từ chỗ cho rằng học chữ Hán không có lợi mấy cho các mục tiêu nói trên mà lại làm tăng tải cho học sinh phổ thông vốn đang chịu tải nặng, và gây tốn kém công quỹ.

Có thể việc bên A dùng chữ chưa hợp lý đã gây ra hiểu lầm. Thực ra họ chỉ muốn phục hồi dạy chữ Nho – tức chữ Hán đọc bằng âm Việt, chứ không phải chữ Hán đọc bằng âm Hán, tức chữ viết của người TQ. Ngày xưa dân ta nói thầy đồ Nho, mực Nho, bút Nho chứ không nói thầy đồ Hán, mực Hán, bút Hán. Chữ Nho là tên gọi quen thuộc, quá chuẩn. Trong mọi văn bản viết, chữ Nho hoàn toàn dùng như chữ Hán, nó có thể “tải đạo”, kể cả mọi thứ đạo—tôn giáo, đâu chỉ có đạo Nho? Người Việt hiện nay dễ phản cảm với mọi thứ dính tới “Hán”.

Nhưng dù chữ Nho đã được tổ tiên ta dùng hơn 2000 năm, hầu hết thư tịch cổ để lại đều là chữ Nho cả, thì có nên cho học sinh phổ thông học chữ Nho hay không?

Cần thấy là chữ Nho hoặc chữ Hán đều rất khó học. Người Việt Nam học chữ Nho dễ hơn học chữ Hán, thế mà nhà Nho nổi tiếng Vũ Bội Liêu nói học thứ chữ này “khi dùng được thì trán đã nhăn, lưng đã còng”. GS triết học Trương Quảng Chiếu nguyên Tổng Biên tập website Viện Khoa học xã hội TQ nói hiện nay ông chỉ viết được khoảng 3000 chữ Hán. Mới đây ông Ngô Văn Siêu, chuyên gia TQ từng dịch 25 năm ở Liên Hợp Quốc nói chữ Hán rất khó học, không có hiệu suất và quá già cỗi, không thích hợp với một thế giới số hóa, toàn cầu hóa. Tuy vậy tiếng TQ vẫn được nhiều người dùng nhất thế giới, nếu học để giao dịch, kiếm sống, đi học, du lịch thì vẫn nên học. Nhưng nếu cần học một ngoại ngữ dễ học và có tính quốc tế cao thì có lẽ người ta chọn tiếng Anh.

Sau đây xin bàn cụ thể một số vấn đề bên A đã nêu ra:

1) Từ Hán-Việt chiếm 60% tiếng Việt, cần học chữ Hán để hiểu và dùng đúng tiếng Việt?

Đúng là nếu không hiểu từ Hán-Việt sẽ có thể dùng sai tiếng Việt. Bên A nêu ví dụ: không biết chữ Hán thì không phân biệt được Minh là sáng (trong Minh Tâm) với Minh là tối (trong U Minh). Thực ra người Việt hiếm khi dùng chữ Minh với nghĩa là tối. Trường hợp này chỉ cần giảng: Đây là từ gốc Hán-Việt, trong chữ Hán hai chữ ấy viết khác nhau là 明 và 冥, và có nghĩa khác nhau, tuy tiếng Việt đều đọc Minh. Thế là học sinh có thể hiểu ngay, đâu cần phải học đọc học viết hai chữ vuông lạ mắt ấy. Như thế quá tốn công sức mà nếu học xong không dùng thì chữ sẽ trả thầy hết.

Trong tiếng Anh, Pháp, Đức có những từ gốc tiếng Latin, một thứ tử ngữ. Như châm ngôn của ĐH Harvard viết bằng tiếng Latin “Veritas” (Sự thật)… nhưng học sinh Mỹ đâu có học tiếng Latin, chỉ cần được giải thích hoặc tra từ điển là họ đủ hiểu gốc gác chữ đó.

Cũng cần xem lại câu nói “từ Hán-Việt chiếm 60% vốn tiếng Việt”. Trước hết đây là con số do nhà Hán học người Pháp Henri Maspéro đưa ra năm 1912. Hơn 100 năm nay mọi người chỉ nói theo, chẳng ai nghiên cứu, thống kê gì cả, mặc dù kho tàng tiếng Việt đã trở nên phong phú hơn rất nhiều, nhất là từ sau 1945; chắc chắn tỷ lệ này cũng thay đổi theo. Thứ hai, có rất nhiều từ Hán-Việt đã Việt hóa tới mức mất gốc Hán (người TQ đọc không hiểu) trở thành thuần Việt, nhưng vẫn bị nhầm là từ Hán-Việt. Ví dụ: khởi nghiệp, lập trình, thiên vị, tự kỷ… Không cần biết chữ Hán vẫn hiểu được những từ đó. Thứ ba, giả thử đúng là 60% thì cũng chẳng có gì đáng ngại. Các nước gần nhau khó tránh khỏi có sự giao thoa văn hóa. Nên biết rằng 70% từ Hán ngữ hiện đại TQ đang dùng là nhập từ Nhật Bản, ví dụ các từ kinh tế, khoa học, dân chủ, bình đẳng,… Bốn chữ đầu trong sáu chữ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là do người Nhật sáng tạo. Chuyện “nhạy cảm” ấy người TQ giấu kín chứ đâu có làm rùm beng như ta.

Hiện nay có tình trạng học sinh phổ thông không thích học môn Văn và viết văn kém trước, đó chủ yếu là do các phương tiện nghe nhìn phát triển mạnh làm cho cả xã hội coi nhẹ văn hóa đọc, đâu phải do không hiểu từ Hán-Việt. Đọc “bài văn lạ” của Nguyễn Trung Hiếu lớp 11 trường THPT Amsterdam Hà Nội sẽ thấy thanh thiếu niên ta ngày càng ít dùng từ Hán-Việt, và bài ấy cũng không có từ nào dùng sai. Nhưng đúng là trên truyền thanh, truyền hình vẫn có hiện tượng sính dùng chữ Hán-Việt, như chết gọi là tử vong, tăng thêm gọi là gia tăng, giảm bớt gọi là giảm thiểu… song chưa nghiêm trọng tới mức làm mất sự trong sáng của tiếng Việt, như bên A quá lời. Người lớn dùng sai thì người lớn phải sửa, cớ sao lại bắt trẻ em phải học chữ Hán?

2) Biết chữ Hán thì viết tiếng Việt tốt hơn?

Thực tế cho thấy nhiều người không biết chữ Hán nhưng viết văn vẫn tốt, kể cả người không học chuyên văn. Nhiều cán bộ các cấp, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhiều dịch giả tiếng Anh, Pháp tuy không biết chữ Hán nhưng ai cũng nói và viết tiếng Việt rất giỏi. Giới cán bộ khoa học kỹ thuật dùng tiếng Việt rất chuẩn. Ngược lại người biết chữ Hán thường hay lạm dụng từ Hán-Việt và dùng cách hành văn lai TQ khó nghe. Ví dụ thực tế có nhiều nhưng không tiện nêu cụ thể.

3) Biết chữ Hán chữ Nôm thì có thể hiểu cặn kẽ di sản văn hóa tổ tiên để lại, hiểu thấu đáo cái hay của Truyện Kiều?

Đúng là toàn bộ thư tịch di sản văn hóa nước ta trước thế kỷ XX, kể cả hoành phi câu đối ở đình chùa đều viết bằng chữ Nho hoặc chữ Nôm. Đọc hiểu các văn bản đó dĩ nhiên tốt quá, nhưng may ra chỉ các chuyên gia Hán Nôm mới làm nổi việc ấy. Học chữ Nho theo kiểu 1 tiết/tuần như bên A đề nghị thì học cả đời chưa thể đọc hiểu vài dòng thư tịch cổ! GS Trần Đình Sử nói “Nếu học một hay vài ngàn chữ Hán thì không đủ sức đọc được câu đối ở các đình chùa”. Yêu cầu học sinh đọc hiểu Truyện Kiều bản chữ Nôm lại càng không tưởng. Bộ GD ĐT không hề đòi hỏi như vậy mà chỉ yêu cầu đọc hiểu bản Quốc ngữ. Hiện nay cả thế giới chỉ có khoảng dăm chục người đọc được chữ Nôm. Chẳng rõ mấy vị PGSTS Hán-Nôm bên A có thuộc vào số đó không? Chưa kể, văn thơ thời xưa dùng nhiều điển tích TQ, phải thuộc sử Tàu mới đọc nổi. Người TQ tốt nghiệp đại học chẳng ai đọc nổi văn cổ mà đều phải đọc bản dịch ra văn bạch thoại (tức văn nói, khác với văn viết theo lối cổ gọi là “văn ngôn”) do một số chuyên gia hàng đầu dịch. Không thật giỏi chữ Hán mà đọc thì chỉ hoài công vô ích, có khi lại hiểu lầm. Hiện nay một số đình chùa đã có sáng kiến đính kèm bản dịch ra chữ Quốc ngữ đặt bên cạnh các hoành phi câu đối chữ Nho, chữ Nôm để giúp du khách đọc hiểu. Nghe nói một chuyên gia Hán Nôm còn đề nghị thay tất cả hoành phi câu đối chữ Nho hoặc Nôm ở các đình chùa bằng hoành phi câu đối chữ Quốc ngữ. Như thế khác nào triệt tận gốc các di tích văn hóa lịch sử, sao có thể nói đến “giữ gìn văn hóa truyền thống”?

4) Nên biết chữ Hán để có thể học “cách dạy chữ dạy người” từ sách chữ Hán nhập môn, qua đó giữ được sự trong sáng của tiếng Việt?

Đề xuất này quá vô lý. Ta đã có môn giáo dục công dân “dạy người” rồi, cớ sao phải mất công (mua và) đọc sách Tàu? Điều đó liên quan gì tới tiếng Việt?

5) Nhật và Hàn Quốc đều cho học sinh phổ thông học chữ Hán, tại sao ta lại không?

Tiếng Nhật hiện dùng ít nhất 1850 chữ Hán, do đó dĩ nhiên họ phải học thứ chữ ấy. Hàn Quốc từ 1948 đã bỏ chữ Hán và chỉ dùng chữ Quốc ngữ của họ (một loại chữ ghi âm) nhưng từ 1972 có bố trí học chữ Hán như môn học tự chọn ở bậc phổ thông và đại học. Điều đó là cần thiết vì tiếng Hàn dùng nhiều từ Hán-Hàn đồng âm nên không ít trường hợp lẫn lộn khó hiểu nghĩa. Ví dụ, do âm Hán-Hàn của chữ 利 và chữ 力 đều đọc là “li”, nên hai từ quyền lợiquyền lực, tiếng Hàn đều đọc là “ch’uan li” (cách phiên âm chữ Hán trong Từ điển Hán-Hàn), vì thế dễ gây nhầm lẫn khi nói và viết. Muốn phân biệt chính xác, phải chú thích bằng chữ Hán (là loại chữ ghi ý, không ghi âm) để thấy 權 利 khác với 權 力. Tiếng Việt giàu âm tiết hơn tiếng Trung và tiếng Hàn, tổ tiên ta đã khôn ngoan sử dụng ưu thế đó, đọc chữ 利 là “lợi”, chữ 力 là “lực”, âm đọc khác nhau nên không có sự nhầm lẫn. Tóm lại người Hàn cần biết một số chữ Hán. Ta chẳng cần, cớ sao lại buộc học sinh ta học thứ chữ ấy?

6) Học chữ Hán không khó, người dạy chữ Hán cũng sẵn; Hà Nội, Huế, TPHCM có sinh viên Hán-Nôm dạy chữ Hán?

Đúng là học lớt phớt thì không khó, nhưng học để đọc hiểu thư tịch Hán Nôm thì khó lắm ! Hàng chục nghìn trường phổ thông thì cần ít nhất hàng vạn giáo viên dạy chữ Hán, lấy đâu ra người và kinh phí? Chả lẽ chỉ một số “trường tinh hoa” mới được học thứ chữ này?

Sau cùng cần nhận rõ: từ 100 năm nay chữ Nho đã là “tử ngữ”, tức không được dùng phổ biến nữa. May ra một số người còn dùng để viết câu đối, viết thư pháp…, hoặc để bán chữ, cho chữ ở chợ quê hoặc chợ Tết. Trên thế giới không nước nào cho học sinh phổ thông học tử ngữ.

Tóm lại đề xuất phục hồi dạy chữ Hán nói trên tuy có thể có động cơ chính đáng nhưng nếu thực thi sẽ làm khổ học sinh, phí tiền của dân mà không đem lại hiệu quả mong muốn.

“Trẻ em như búp trên cành”, bị chạm nhẹ đã có thể rụng. Chớ nên dùng chúng làm vật thí nghiệm cho những ý định không tưởng hoặc thiếu cân nhắc thận trọng.

Chúng tôi đề nghị:

1- Nên quy định: ở bậc đại học kể cả ĐH sư phạm, các ngành sử và văn bắt buộc phải học tiếng TQ (hoặc chữ Nho); ở bậc phổ thông, tiếng TQ chỉ nên là môn học tự chọn.

2- Viện Hán Nôm tổ chức dịch dần ra Quốc ngữ các thư tịch Hán-Nôm quan trọng nhất và in ra hoặc công bố trên mạng để nhân dân thưởng thức.

3- Bộ GDĐT tổ chức biên soạn xuất bản một bộ Từ điển Từ Hán-Việt đầy đủ và chính xác. Giáo viên văn cần tăng cường giảng cho học sinh hiểu thấu đáo từ Hán-Việt.

4- Ngành truyền thông cần gương mẫu hạn chế dùng từ Hán-Việt, tăng cường dùng từ thuần Việt.

Nguyễn Hải Hoành