Knowledge and Intelligentsia

Tri thức và trí thức

GS Nguyễn Ngọc Lanh

Tiến hoá xã hội

Thời kỳ mông muội, con người vừa tách khỏi thú vật nên không chịu thua con thú nào về mức sử dụng cơ bắp, do vậy cũng không chịu kém chúng về mức vất vả, nhọc nhằn. Lao động chân tay là độc tôn, được đề cao tuyệt đối. Đứng đầu bộ lạc phải là người nổi trội về sức mạnh cơ bắp. Trong truyện cổ tích, các anh hùng càng phải có sức mạnh cơ bắp – là thứ mọi người ao ước, tôn thờ. Anh hùng cổ tích dẫu có phép thần thì chung qui cũng chỉ để phát huy loại sức mạnh gân cốt này. Đức thánh Gióng dùng roi sắt quật rồi nhổ cả bụi tre phang vào giặc Ân, còn con ngựa sắt phải... hét ra lửa đốt kẻ thù, thậm chí nó phải... biết bay để mang ngài lên trời! Toàn là sức cơ bắp.

Con người khác con vật là có hai tay, lại được điều khiển bằng bộ não đã phát triển cao, nên bàn tay ngày càng khéo léo. Nhưng điều quan trọng hơn là, nhờ bộ não, con người thu được kinh nghiệm (con vật chưa chịu kém) và tạo ra tri thức (con vật đành thua). Và đây là mới chính là nguyên nhân cốt lõi và vĩnh hằng của tiến bộ xã hội. Mọi nguyên nhân khác, nếu có, chỉ là phụ và tạm. Quá nhấn mạnh những nguyên nhân phụ sẽ gặp rắc rối không chỉ về nhận thức.

Khi một bộ lạc chuyển sang cử một người già đứng đầu thay vì cử một thanh niên cường tráng, thì có thể nói con người đã bắt đầu nhận ra ưu thế của lao động trí óc. Cố nhiên, ban đầu khối tri thức trong xã hội chưa đủ lớn và lớn rất chậm thì kinh nghiệm vẫn tạm thời quan trọng hơn tri thức. Trong xã hội nông nghiệp, điều này tồn tại rất lâu dài, đến nay vẫn thể hiện ở phong tục thờ cúng tổ tiên, trong đó mọi việc lớn trong gia đình đều được trình báo và xin ý kiến “người càng già, càng tốt” – chính là tổ tiên nhiều đời, nên nhiều kinh nghiệm.

Xã hội càng công nghiệp hoá (đồng nghĩa với tăng khối tri thức và giảm giá trị của kinh nghiệm) thì việc vái tổ để “xin ý kiến” sẽ giảm mà chủ yếu để tỏ lòng biết ơn. Do vậy, từ khi xã hội tạo được lớp người “chuyên sản xuất tri thức” thì tốc độ tiến hoá biến đổi về chất: các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật cứ ngày càng dồn dập.

Nếu khả năng sáng tạo của bộ não là vô hạn thì trí nhớ lại hữu hạn, do vậy trước sau con người cũng phải tạo ra chữ viết để khối tri thức và kinh nghiệm lưu tạm thời trong não (là tài sản cá nhân) được lưu lại lâu dài trong sách vở (thành tài sản chung).

Con người “ngộ” ra rằng tri thức thật quan trọng; do vậy từ khi có chữ, xã hội bắt đầu có trường lớp khiến số người lao động kỹ thuật và trí óc tăng nhanh, đẩy hiệu quả lao động của xã hội còn tăng nhanh hơn nữa. Dường như chúng ta tri ân chưa đủ mức đối với người tạo ra chữ quốc ngữ, thậm chí còn “xét” xem có đáng tri ân hay không.

Trí thức trong liên minh

Hôm nay, ai cũng nhận ra sự khác biệt về chất giữa lao động của nông dân, công nhân và trí thức, nhưng hôm qua thì chưa chắc.

Có thời, chúng ta nêu cao khẩu hiệu “tất cả cho sản xuất” và chia lao động thành hai loại: trực tiếp sản xuất (công nhân, nông dân) và gián tiếp (trí thức, gồm cả văn nghệ sĩ). Để gạt hẳn trí thức về phía “không sản xuất”, chúng ta nhấn mạnh là “sản xuất ra của cải vật chất”. Thế thì nếu có liên minh, trước hết phải là liên minh công – nông, sau đó mới “xét” để xem liệu trí thức đã cải tạo đủ mức để được tham gia hay không.

Bác nông dân dùng cuốc bổ xuống đất thì năng suất rất thấp, nhưng số mồ hôi và calo tiêu thụ lại rất cao; do đó, thu nhập đã thấp lại chủ yếu dùng để ăn, phục hồi sức cơ bắp. Trong khi đó chú công nhân lái máy cày thì năng suất khác hẳn, ít vất vả hơn, mà thu nhập cao hơn (có dành khoản chi cho học tập của bản thân và con cái).

Một câu hỏi ắt được đặt ra: ai dạy anh công nhân cách lái máy cày, ai sáng tạo cái máy cày kia? Thực ra, câu hỏi này đã bị đặt ra rất muộn; và khi có câu trả lời thì chúng ta bắt đầu có khối liên minh công – nông – trí. Nhưng thực chất “liên minh” này là thế nào?

Mọi học sinh Việt Nam đều phải trả lời được: Đó là khối liên minh do công – nông làm nòng cốt, trong đó công nhân là giai cấp lãnh đạo, nông dân là đồng minh tin cậy và lâu dài của công nhân, kết hợp với trí thức. Nếu học sinh nào nói rõ “đây là trí thức XHCN” (ý nói đã được cải tạo) sẽ được thưởng điểm.

Trí thức hoá công nhân

Muốn mọi nông dân cũng sử dụng máy móc (tức là biến họ thành công nhân nông nghiệp, để họ đỡ vất vả) là ý đồ tốt đẹp, nhưng không thể thực hiện bằng kêu gọi, hoặc phát động phong trào thực hiện khẩu hiệu “công nhân hoá nông dân” - vì đó là ảo tưởng. Nó ảo tưởng như thuở nào chúng ta “phát động” nông dân phá bờ ruộng để hàng chục người trong hợp tác xã nông nghiệp có thể cùng cuốc đất trên một thửa đất.

Cách thực hiện ý đồ phải là công nghiệp hoá đất nước ở trình độ cao (mà quá trình này không thể ngắn, không ít gian khổ) chứ không thể bằng khẩu hiệu hay phong trào.

Nền kinh tế tri thức còn cho phép mọi công nhân làm việc như trí thức; ví dụ, dùng máy vi tính để cắt gọt kim loại, điều khiển robot cày ruộng, sản xuất hàng hoá cao cấp... Nhưng có được nền kinh tế tri thức càng không dễ.

Do vậy, từ bao năm nay tôi đã cố mà vẫn không hiểu nổi cái khẩu hiệu ồn ào một thời: “trí thức hoá công nhân” (và cả “công nhân hoá trí thức”) trong khi nền kinh tế nước ta còn dựa vào lao động thủ công là chính!

Anh chị em công nhân nào muốn học tập để thành lao động trí óc thì rất đáng khuyến khích, vì đó là quyền. Nhưng việc đề khẩu hiệu và thực hiện bằng phát động phong trào thì lại khác.

Còn khác hơn nữa, khi đất nước, gia đình và bản thân tốn bao công sức mới đào tạo được một trí thức, thì lại muốn đông đảo trí thức phải “công nhân hoá”.

Các nền văn minh: Vài vấn đề còn thảo luận

Xu hướng đánh giá sự tiến hoá xã hội bằng trình độ văn minh xuất phát từ quan điểm coi tri thức là động lực quan trọng nhất của sự tiến hoá. Hiện nay, người ta thừa nhận nhân loại đã trải qua các thời kỳ: mông muội (hàng triệu năm); văn minh nông nghiệp (hàng chục ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn năm); văn minh công nghiệp - ứng với chế độ tư bản giai đoạn đầu; văn minh hậu công nghiệp và văn minh tri thức – giai đoạn hiện nay.

Cũng có khi con người phải dùng bạo lực cách mạng để giải quyết bế tắc trong quá trình tiến hoá xã hội – đó là khi sản xuất bị đình đốn. Thực chất, đình đốn sản xuất có nguyên nhân sâu xa từ hoạt động sáng tạo tri thức bị kìm hãm, lớp trí thức không có môi trường tự do cần thiết để sáng tạo. Tuy nhiên, các cuộc cách mạng nhằm thay đổi chế độ sẽ ngày càng giảm bạo lực, rồi không đổ máu, tiến tới ôn hoà, tranh thủ sự đồng thuận, mà sự biến đổi xã hội vẫn không kém sâu sắc.

Các nền văn minh ngày càng ngắn lại để chuyển sang nền văn minh mới mà nguyên nhân vẫn là khối tri thức tích luỹ với tốc độ ngày càng nhanh. Câu nói “một ngày bằng 20 năm” chúng ta đã từng nghe nhiều để chỉ thời đại ngày nay. Chế độ tư bản (ứng với văn minh công nghiệp) sẽ ngắn hơn chế độ phong kiến (ứng với văn minh nông nghiệp) và càng ngắn hơn thời kỳ mông muội.

Chế độ tư bản, về nguyên tắc, không thể tồn tại quá thời gian lịch sử cho phép vì nó cũng chẳng ít khuyết tật không sửa nổi. Nhưng nó mới trải có 500 năm, vẫn đang hoàn thiện, vẫn đang có đóng góp (ví dụ, khởi tạo ra nền văn minh tri thức), do vậy chưa thể suy tàn ngay - như tôi vẫn cầu khẩn.

Một sai lầm lớn (nên hậu quả không nhỏ chút nào): Đó là dự đoán quá sớm thời điểm cáo chung của chế độ này. Đó là sự “tiến thẳng” và triệt để “bỏ qua” chế độ tư bản đầy đau khổ (giống như cách đây 80 năm Lênin đã từng sai và phải sửa).

Sai nhỏ thì nhan nhản, ví dụ khi chúng ta chọn học sinh công nông trình độ tiểu học bổ túc 2 năm (để “bỏ qua” cấp 2), tiến thẳng lên đại học (Y Hà Nội), may là phần lớn họ thành lãnh đạo trong ngành y tế mà rất ít trực tiếp chữa bệnh.

Có người đã tính thử - dựa vào độ dài của các chế độ và nền văn minh trước nó - để dự đoán chế độ tư bản còn phát huy tác dụng tích cực và tồn tại bao lâu nữa. Kết quả: khá lâu đấy. Có thể nền văn minh tri thức đủ thời gian kịp hình thành trong chế độ này.

GS Nguyễn Ngọc Lanh