Võ Liêm Sơn (1888-1949)
VÕ LIÊM SƠN hiệu Ngạc Am, sinh ngày mồng bảy tháng bảy năm Mậu Tý (8-8-1888) ở làng Phổ Minh, xã Hữu Ngoại, nay là xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Tiểu sử
Từ nhỏ Võ Liêm Sơn đã theo đuổi Hán học, rồi học tiếp chữ Pháp. Năm 1905, vào trường Quốc học Huế cùng lớp với Lê Đình Thám, Võ Chuẩn, Lê Thanh Cảnh, Nguyễn Tất Thành... Năm 1911 ông đỗ Thành Chung ở trường Quốc học Huế được bổ làm giáo học ở đạo Ninh Thuận. Một năm sau, khoa Nhâm tý (1912), ông lại đỗ cử nhân Hán học ở trường thi Bình Định.
Sau thời gian học hậu bổ, ông được bổ tri huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam nhưng không đầy một năm bị huyền chức vì vạch trần việc Tổng đốc Quảng Nam Từ Thiệp ăn hối lộ, bao che cho một viên chánh tổng. Ông chuyển về Huế làm Thừa Biện. Trong thời gian này ông bắt đầu đọc sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Ít lâu sau ông xin chuyển sang ngạch giáo chức, ra làm Huấn đạo Ninh Thuận (1914), được thăng Kiểm học Phú Yên (1917).
Đến năm 1919, bỏ ngạch học quan Nam triều, ông được bổ giáo học dạy Hán văn và Việt văn tại trường Quốc học Huế. Các nhà cách mạng Hà Huy Tập, Nguyễn Chí Diểu, Trần Phú, Nguyễn Khoa Văn, Trương Tấn Bửu, Võ Nguyên Giáp... hồi ấy đều là học trò của ông.
Là người có tâm huyết với nghề, có kiến thức sâu rộng, có chí khí quật cường, thầy Võ Liêm Sơn được coi là nhà sư phạm mẫu mực, được học trò và mọi người yêu kính. Ông coi việc truyền bá kiến thức không phải là mục đích mà là phương tiện để hoàn thiện đạo làm người, đạo làm dân nước. Và về mặt này, nhân cách của ông cũng là một bài học lớn.
Ông đã mượn câu thơ của Hồ Tá Bang tặng cho một học trò là Trần Phú:
Sinh ư nô lệ sinh do tử
Tử yếu tự do tử nhược sinh.
Tạm dịch: Sống trong nô lệ sống như chết / Chết vì tự do chết vẫn còn.
Người học trò xuất sắc Trần Phú đã biết sống và chết đúng như lời dạy của thầy.
Người học trò khác, tướng Giáp, sau này thì viết trong "Hồi ức về trường Quốc học" (Sông Hương số 20-1983): "Cụ Võ là người đầu tiên giới thiệu cho tôi cuốn sách trình bày khái lược chủ nghĩa Mác, trong đó có nói đến quy luật khẳng định, phủ định, và phủ định của phủ định".
Có lẽ những năm ở Huế là quãng đời sôi nổi nhất của Võ Liêm Sơn. Ông Lâm Hồng Phấn, trong hồi ký của mình cho biết: "Cụ Võ Liêm Sơn người cũng cao to, tóc đã hoa râm, cúp ngắn, miệng luôn nhai trầu, đôi môi đỏ thắm, da mặt hồng hào, giọng nói như chuông, tuy lớn tuổi nhưng còn nhanh nhẹn lắm" (Ông già Bến Ngự - xuất bản Thuận Hóa).
Nhà ông ở Bến Ngự, gần chùa Từ Đàm, lúc Phan Bội Châu được đưa về an trí ở Huế, chính ông là người vận động làm nhà cho cụ Phan ở gần mình để tiện qua lại, giúp đỡ. Cụ Phan có mở một lớp học trong nhà dạy chữ quốc ngữ cho các cháu nhỏ, hai người con của ông là Giới Sơn, Bình Sơn vào dịp hè cũng đến nghe giảng. Cụ Phan thường hào hứng khi giảng dạy, ông và các ông Huỳnh Thúc Kháng, Võ Bá Hạp lo sức khỏe của cụ, thường đến can ngăn. Có một đêm rằm tháng Bảy trời đã khuya, cụ Phan vẫn đứng dưới trăng sang sảng đọc bài văn tế Phan Tây Hồ (Phan Chu Trinh), ông ở bên nhà không yên tâm vội chạy sang cùng với ông Giám Hành khuyên cụ đi ngủ, cụ mới chịu vào nhà. Mỗi lần làm xong một bài thơ, cụ Phan thường sao lại đưa mấy người bạn thân thiết (ông Huỳnh, ông Cử Hạp, ông Cử Bá, và ông) cùng xem hoặc họa lại. Thường khi ông hay sang nhà nghe cụ Phan đọc thơ và chính ông cũng thường ngâm nga những bài thơ trong tiểu thuyết Cô lâu mộng (Giấc mộng xương khô) của mình.
"Đã trót sinh ra giống hữu tình,
Tu sao cho trọn lấy phần thanh..."
Ngoài những người trên đây, Võ Liêm Sơn còn giao tiếp với những trí thức cựu học, tân học khác ở đất Thần kinh như Lâm Mậu, Đào Duy Anh...
Ít ai có thể nghĩ rằng ông lại ham thích chơi gà chọi. Có người nói: Ông có hai cái thú là viết văn làm thơ, và đá gà. Ông Nguyễn Đức Xuân trong Hương Giang cố sự dẫn theo cụ Phan Văn Dật, kể lại một chuyến chọi gà của ông trong thành nội: gà của ông nhỏ con, không đẹp mã, móng không sắc, nhưng rất khôn, khi xáp trận tỏ ra bình tĩnh, gan dạ lại biết công thủ tùy lúc. Cuối cùng nó đưa lưng đỡ một cú đá song phi, rồi thừa cơ mổ đúng hành tủy làm con gà đối phương lảo đảo gục xuống. Ông nhận 5 đồng tiền thưởng, rồi ôm con gà chiến thắng lông cánh đầy máu vào lòng, lại hôn lên đầu nó. Trên đường về, ông bảo hai người học trò Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn: "Mai mấy con lên ăn cháo gà". Hôm sau hai người đến, tưởng là thầy dùng tiền thưởng mua gà, hóa ra thầy đã cho giết thịt con gà chọi. Thấy họ tỏ ý tiếc, ông bảo: "Con gà cũng như con người, chỉ hay được một thời. Hóa kiếp để giữ khí tiết cho nó. Chắc chi đá thêm một trận nữa nó đã thắng nổi. Không khéo lại thân bại danh liệt". Thì ra là vậy. Ông có cái triết lí sống của ông.
Tác phẩm
Chọi gà chỉ là một thú chơi, còn cái thú viết văn là một sự nghiệp song song với sự nghiệp "trồng người" và gắn chặt với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của ông. Võ Liêm Sơn làm thơ khá nhiều, từ lúc còn trẻ cho đến lúc tuổi đã cao. Ông cho biết: "Tôi làm thơ từ hồi còn thanh niên, lúc bấy giờ làm thơ để ngâm cho vui, cho đỡ buồn, có khi hứng lên cũng đọc cho bạn nghe, nhưng ít khi viết thành tập, mà cũng không bao giờ nghĩ đến việc xuất bản và đăng báo". Theo ông thì: "Thơ là thơ, không có cái nghĩa gì hơn nữa...". Thơ ông đến năm 1957 mới được tuyển chọn in thành tập Ngắm non Hồng (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, HN 1957) và năm 1993 lại được tập hợp trong Thơ văn Võ Liêm Sơn (Hội văn nghệ Hà Tĩnh).
Năm 1927 ông có chân trong Ban biên tập "Quan hải tùng thư" do Đào Duy Anh phụ trách và xuất bản cuốn Hài văn (1929). Đây là tập văn chính trị hài hước, châm biếm chế độ chính trị... còn cách bức. Năm 1930, ông và người con trai đầu là Võ Bỉnh Sơn bị quân Pháp bắt và đưa về giam ở nhà lao Hà Tĩnh gần một năm. Sau khi ra tù, ông về quê vợ ở Bình Thuận sống ẩn dật, và chuyên tâm sáng tác văn học. Khâm sứ Trung Kỳ Y-vơ Sa-ten (Yve Châtel) đã nhiều lần mua chuộc nhưng ông không chịu ra làm quan.
Năm 1934, ông sáng lập Tân Văn nghệ Tùng thư nhưng mới xuất bản được 2 cuốn sách thì bị khám nhà và bị bắt giam. Từ năm 1944, ông bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh. Sau năm 1945 – cách mạng thành công, ông tích cực tham gia chính quyền mới và được tín nhiệm bầu làm chủ tịch Mặt trận Liên Việt tỉnh Hà Tĩnh và liên khu 4.
Năm 1948, Võ Liêm Sơn được đi dự hội nghị Kháng chiến toàn quốc và hội nghị Văn hoá toàn quốc ở Việt Bắc. Đó cũng là cơ duyên cụ Võ được gặp cụ Hồ. Lần ấy cụ Hồ đã mời cụ Võ về ở với mình bảy ngày và tặng một bài thơ.
Nguyên văn bài thơ Tặng Võ Công:
Võ Liêm Sơn lão tiên sinh nhã chính.
Thiên lý công tầm ngã / Bách cảm nhất ngôn chung / Sự dân nguyện tận hiếu / Sự quốc nguyện tận trung / Công lai ngã hân hỉ / Công khứ ngã tư công / Tăng công chỉ nhất cú: /Kháng chiến tất thành công.
Bản dịch thơ:
Ngàn dặm cụ tìm đến
Một lời trăm cảm thông
Thờ dân trọn đạo hiếu
Thờ nước vẹn lòng trung
Cụ đến tôi mừng rỡ
Cụ đi tôi nhớ nhung
Một câu xin tặng cụ:
Kháng chiến ắt thành công
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXB Chính Trị Quốc Gia, 1995)
Cụ Hồ viết tặng cụ Võ, nhưng cũng là viết cho mình, chăm chút đạo hiếu trung thờ dân, thờ nước. Nhận được thơ tặng của bạn cũ, cụ Võ Liêm Sơn có thơ hoạ lại, cũng theo lối thơ năm chữ, tám câu. Cả hai bài thơ tặng và hoạ đều có chung một sợi chỉ đỏ: tin ở thành công của kháng chiến.
Nguyên văn bài họa thơ Kính tặng Hồ Chủ tịch:
Phùng công hỉ công kiện / Chiến sự bách mang chung / Đối thoại duy dân quốc / Tương kỳ tại hiếu trung / Hùng tài nguyên bất thế / Đại đạo bản vi công / Tương kiến trùng lai nhật / Kháng chiến dĩ thành công.
Tạm dịch thơ:
Gặp cụ mừng cụ khoẻ
Việc quân bận vô cùng
Chuyện trò chỉ dân nước
Cùng tỏ một hiếu trung
Tài hùng đâu dễ có
Đạo lớn cốt vì chung
Ngày ta gặp nhau lại
Kháng chiến đã thành công
Khi chia tay người bạn cũ để về lại khu 4, Hà Tĩnh, cụ Võ được cụ Hồ tặng chiếc gậy có khắc dòng chữ: “Tặng Võ Liêm Sơn tiên sinh”. Nhưng vừa về đến quê nhà, cụ Võ lâm bệnh và mất vào ngày 25 tháng giêng năm Kỷ Sửu (22-2-1949), thọ 61 tuổi.
Lăng mộ Võ Liêm Sơn nằm giữa rừng thông trên một quả đồi ven đường lên chùa Hương Tích. Nhớ đến người bạn cũ, hễ biết có cán bộ đi qua Hà Tĩnh, bao giờ cụ Hồ cũng trân trọng nhờ đến thắp hương trước mộ cụ Võ tỏ mối thâm tình đồng chí đồng hương.
ST