Hat Mon Temple of Two Sisters Trung

Đền Hát Môn

BTV: Đông Tỉnh

Nguyễn Chí Công

Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng. Xếp hạng: Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt (năm 2014). Địa chỉ: xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Toạ độ: 21°07’46"N 105°36’44"E; cách thị trấn Phùng chừng 8km về hướng bắc và cách Hồ Gươm khoảng 26km về hướng tây. Điểm dừng xe bus gần nhất: ngã ba Hồng Hà—Hát Môn (bus 20c, tuyến Nhổn—Võng Xuyên)

Bản đồ trực tuyến

Từ Hà Nội theo quốc lộ 32 đi hết thị trấn Phùng là đến xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ (xưa là Phúc Lộc), Sơn Tây. Nơi đây có 1 trong 3 ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và lâu đời nhất ở nước ta. Nguyên xưa, ngôi đền nằm trên bờ cửa sông Hát (đoạn sông Đáy nối sông Hồng), sau do sông đổi dòng nên đền đã ở sâu vào đất liền.

Đàn thề

Tương truyền, đây là nơi Hai Bà Trưng lập đàn và mở hội thề tụ nghĩa năm 40 đầu công nguyên, trước khi xuất quân đánh thái thú Tô Định. Sau khi chiếm được các thành trì ở Lĩnh Nam, Hai Bà bèn tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh, Vĩnh Phúc. Hai năm sau, nhà Hán sai Mã Viện sang đánh, quân Hai Bà phải rút về giữ Cấm Khê, Trưng Vương tự vẫn ở sông Hát, về sau dân xã Hát Môn lập đền thờ kề chân đê.

Truyền rằng đền có từ thời tiền Lê, diện mạo hiện tại mang dấu vết từ thế kỷ 19. Từ hai phía đầu đê đi xuống đền Hát Môn là hai tấm bia có chữ "Hạ mã". Xưa kia, các quan thuộc các triều đại qua đây đều phải xuống ngựa và đi bộ để tôn kính Hai Bà. Ngay chân đê là cổng đền với các bậc thềm đi xuống. Hai bên cổng có hai cột trụ với đôi câu đối nổi tiếng:
Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cẩm Khê doanh hạc Hát giang trường

tạm dịch:
Đồng trụ gãy hay còn, núi Lĩnh Nam đời đời cao ngất
Cẩm Khê vơi hay đầy, dòng Hát Giang mãi mãi vươn dài.

Trước khi vào thăm đền, ta sẽ gặp miếu "Bà Hàng nước" thờ người phụ nữ đã khuyên Hai Bà tự vẫn để giữ trọn khí tiết.

Tiếp đến, ta sẽ gặp hai trụ đồng được coi là cổng đền. Cao Bá Quát - một bậc tài danh và khí phách hào hùng ở TK 19, đã tiến cúng đền Hát Môn một đôi câu đối ca ngợi công đức Hai Bà, khắc ngay trên cột trụ:
Tùng bất kim đao, thiên khai vận,
Ưng vô đồng trụ, đá phân cương ".

Nghĩa là: Nếu không có kim đao do Hai Bà (ví như trời) mở vận thì đâu có được đất nước này một bờ cõi riêng.

Tam quan

Từ cổng đền đi xuống khoảng 200m là cửa Tam quan. Qua một sân rồng với những phiến đá xanh chạm khắc từ thời Lê là đến cửa điện thờ. Đền được xây dựng trên một gò đất cao, với bố cục theo kiểu tiền tế chữ Nhất (一).

"Lạc Hùng chính thống"

Trong đền, bày nhiều đồ thờ cúng cùng hoành phi, câu đối, nói lên khí phách, tinh thần quật khởi và công đức của Hai Bà, đối với non sông xã tắc. Chính giữa đền treo bức đại tự 樂 雄 正 統 (Lạc Hùng chính thống).

Điện thờ

Phía Hậu cung đặt hai long ngai bài vị của hai Bà. Ngoài ra, trong đền hiện còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật giá trị như: kim tự khí, hương án, bài vị... mang đậm nghệ thuật chạm khắc thời Lê. Tương truyền rằng Hai Bà hi sinh ở chiến trường, máu Hai Bà thấm đỏ non sông. Bởi vậy, toàn bộ đồ thờ ở đền Hát Môn đều sơn màu đen, kiêng màu đỏ. Hàng năm, người đến tế lễ cũng như dự hội hè ở Hát Môn đều không được ăn vận quần áo, trang phục màu đỏ. Nếu có phải để ở ngoài đền.

Gò Ngọc Ấn

Phía sau đền có một gò gọi là gò Ngọc Ấn, nơi khi xưa nghĩa quân Hai Bà chôn giấu các ấn tín và ngọc ấn. Đền đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 1991.

Lễ hội chính vào ngày mồng 6 tháng Ba, mồng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch. Hội lễ ngày mồng 6 tháng Ba, ngày hoá của Hai Bà Trưng là hội lễ chính hằng năm. Trong ngày hội, dân làng cúng Hai Bà những mâm đầy các đĩa bánh trôi. Theo truyền thuyết tại Hát Môn thì khi bị vây hãm, Hai Bà đã phi ngựa qua vùng căn cứ cũ, nhân lúc đói, Hai Bà ghé vào quán hàng bánh của một bà già ăn đĩa bánh trôi và 2 quả muỗm. Bánh trôi dâng phải có đủ 100 viên rất nhỏ, sau khi tế lễ xong, làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả xuống dòng sông để trôi về biển cả. Đặc biệt, dân làng Hát Môn không làm và không ăn bánh trôi trước ngày 6 tháng Ba.

Tượng thờ. Bà Trưng Trắc bên phải

Hội lễ ngày 4 tháng Chín, tương truyền là ngày Hai Bà làm lễ xuất quân. Trong ngày hội có diễn múa cờ với sự tham gia của trai đinh trong làng, có đông đảo du khách trẩy hội. Hội lễ ngày 24 tháng Chạp, được tổ chức rất trang nghiêm. Đó là lễ Mộc dục (tắm tượng). Để chuẩn bị cho lễ Mộc dục, làng Hát Môn chọn 20 tráng đinh, vào nửa đêm ngày 23 sang ngày 24 rước tượng Hai Bà từ trong hậu cung ra nhà Dội (nhà tắm tượng). Cùng lúc đó, dân chài Hát Môn, cũng gọi là vạn Hát, sắm sửa thuyền chở lọ (hoặc bình, ang, hũ) đựng nước ra giữa sông Hồng lấy nước về nhà Dội để làm lễ. Gọi là tắm tượng nhưng người ta chỉ lau phủ bụi bặm trên tượng, rồi dùng khăn nhúng nước (có khi pha hương hoa lá thơm) để lau lần nữa. Sau cùng, rước tượng về bày thờ ở hậu cung.

Đông Tỉnh