Về Phác thảo phim Thái tổ Lý Công Uẩn

Những phác thảo phục trang và bối cảnh của phim Thái tổ Lý Công Uẩn đã khiến GS Lê Văn Lan “kinh hoàng” và ĐD Đỗ Minh Tuấn cũng kinh hoàng trước những lời phản biện trên công luận.

Phác thảo lúc này chưa hề có tư duy nghệ sỹ
- Sau buổi sơ duyệt phác thảo phục trang và bối cảnh phim Thái tổ Lý Công Uẩn, dư luận có nhiều ý kiến chê trách, lo lắng cho bộ phim tương lai. GS Lê Văn Lan, một thành viên của Hội đồng biên tập phim cũng có những ý kiến phê phán khá mạnh mẽ. Anh nghĩ thế nào về những phản ứng này?
- Thực ra, bản chất của buổi sơ duyệt này là báo cáo các kết quả nghiên cứu khảo cứu ban đầu để làm cơ sở cho các nghệ sỹ sáng tác. Giống như kéo nhau đi xem mảnh đất sẽ xây nhà, xem catalog của mấy ngôi biệt thự và nghe ông chủ trình bày kế hoạch thuê thợ xây dựng... chưa phải xem bản thiết kế ngôi nhà tương lai. Nhưng công luận và các nhà chuyên môn lại nhìn những phác thảo nghiên cứu đó như những phác thảo sản xuất, nên phê phán nó theo kiểu chê quả trứng mới rụng vào dạ con người mẹ là “Ôi dào, thấy bảo sắp đẻ con trai mà chiếu lade chẳng thấy mặt mũi, cũng chẳng thấy chim”!

Chưa, chưa thể nhanh thế đâu! Một bộ phim bình thường cũng chưa thể duyệt phác thảo bối cảnh và phục trang sau vài tháng như vậy, huống hồ đây là một bộ phim có quy mô lớn gấp trăm lần.

Đây là bộ phim đặc biệt nên mỗi công đoạn với các phim khác thực hiện một bước thì phim này phải thực hiện nhiều bước nhỏ. Để đi đến một buổi duyệt phác thảo bối cảnh thực sự, phải qua vài chặng khảo cứu, nghiên cứu và sáng tác nữa với sự tham gia trực tiếp của đạo diễn và họa sỹ.

Phải ít nhất ba, bốn tháng nữa mới có thể duyệt phác thảo bối cảnh và phục trang chính thức. Vì anh Lê Đức Tiến muốn tranh thủ sự đồng thuận xã hội nên mời báo chí đến quá sớm, ngay từ bước sơ khởi mang tính nội bộ, dẫn đến việc những bộn bề rau dưa bếp núc bị nhìn nhận đánh giá như bữa tiệc linh đình.
- GS Lê Văn Lan có nói rằng, những phác thảo bất cập là do các nghệ sỹ làm mà thiếu sự tham gia của các nhà khoa học. Để khắc phục, GS Lê Văn Lan cho rằng, hai ông họ Lê (Lê Đức Tiến - nhà sản xuất và Lê Văn Lan - nhà khoa học) cần phối hợp chặt chẽ hơn. Anh nghĩ thế nào?
- Tôi không nghĩ vậy. Thực ra, trong giai đoạn đầu tiên này, anh Tiến có biểu hiện coi trọng các nhà khoa học hơn nghệ sỹ. Việc sửa chữa viết lại kịch bản, GS Lê Văn Lan được tham gia góp ý từ đầu đến cuối, đọc kịch bản năm lần bảy lượt, nhưng tôi là đạo diễn trong Ban dự án mà có được biết gì đâu?!

Vì nhà sản xuất quá coi trọng nhà khoa học nên các phác thảo được trưng bày đậm tính nghiên cứu mà chưa thấy tư duy nghệ sỹ. Ta có thể thấy dấu vết của các nhà khoa học ở những bản vẽ kỹ thuật thiết kế điện Càn Nguyên, những mẫu phục trang thể hiện sự nghiên cứu trang phục của nhà Tống, của tượng Kim Cương v.v. nhưng ta chưa thấy trí tưởng tượng của nghệ sỹ và những hình tượng điện ảnh gắn liền với nhân vật, tôn giáo và triều đại. Chẳng hạn, mảng Hoa Lư gắn với thời trẻ của Lý Công Uẩn và Ngọa Triều Hoàng đế vừa sơ sài mờ nhạt, vừa thiếu những góc nhìn điện ảnh, vừa không tạo thành một mảng có sắc thái văn hoá riêng phân biệt với mảng bối cảnh Thăng Long.

Nếu tôi chỉ đạo làm các thiết kế này, tôi sẽ phải phân tích cho họa sỹ sự khác nhau về phương diện hình tượng và văn hoá của hai mảng bối cảnh trên, để chuỗi hình ảnh trưng bày gắn liền với các nhân vật ở các thời điểm quan trọng và thể hiện sự vận động của cảm xúc và hình tượng. Và cũng phải đưa vào các bối cảnh tinh thần tôn giáo một yếu tố quan trọng của văn hoá thời Lý.

Nhưng vì đây mới chỉ là các phác thảo tổng hợp những nghiên cứu nên anh Lê Đức Tiến, Giám đốc sản xuất chưa đưa đạo diễn vào cuộc. Mọi công việc thiết kế bối cảnh tạm giao cho họa sỹ Phạm Quốc Trung và một họa sỹ trẻ mới vào nghề thể hiện. Người thì bận làm phim Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, người thì chưa đủ sự tích luỹ về tay nghề và kiến thức nên bối cảnh chủ yếu là Việt hoá các bối cảnh của Trung Quốc thấy được qua khảo sát.

GS Lê Văn Lan nói rằng, phác thảo dở và sai là do nghệ sỹ sáng tác một mình, thiếu sự chỉ đạo của các nhà khoa học là không đúng. Nhìn chung, những phác thảo hôm đó chưa phải là con đẻ của các nghệ sỹ, chưa có sự chỉ đạo của đạo diễn và họa sỹ phim. Nhưng với tư cách là những ý tưởng ban đầu thì mảng phục trang của TS Nguyễn Thị Tình và những gợi ý bằng hình và bằng lời của họa sỹ Phan Cẩm Thượng là rất có giá trị.
- Như vậy, mối quan hệ giữa nhà sản xuất, nhà khoa học và nghệ sỹ hiện nay đang có vấn đề? Theo anh, nên xử lý mối quan hệ đó thế nào?
- Để đi đến những phác thảo có tính nghề nghiệp hơn, có thể dựa theo đó mà may phục trang hay xây dựng bối cảnh cần nhanh chóng đưa nghệ sỹ vào cuộc. Nghĩa là, mối quan hệ nghệ sỹ và nhà sản xuất cần chặt chẽ hơn, chứ không phải mối quan hệ nhà khoa học và nhà sản xuất cần gắn bó hơn. Không phải hai ông họ Lê cần hợp tác chặt chẽ hơn mà hai ông họ Lê cần hợp tác chặt chẽ hơn với các ông nghệ sỹ họ Đỗ, họ Vương, họ Vũ và nhiều họ khác chứ không chỉ họ Lê!

GS Lê Văn Lan là một học giả uyên bác, nhiệt tình, cởi mở, có nhiều ý kiến sắc sảo. Trong quá trình sáng tác, chúng tôi vẫn thường xuyên tranh thủ tham khảo ý kiến của ông. Nghệ sỹ cần lắng nghe các nhà khoa học, nhưng mặt khác, các nhà khoa học không nên làm dì ghẻ của nghệ sỹ, bao sân mọi quá trình sáng tác, nên để cho nghệ sỹ sáng tác phóng túng theo cảm xúc rồi tư vấn và phản biện.

Bộ phim tương lai là thành quả chung của nhà sản xuất, nhà khoa học và nghệ sỹ, nhưng nếu không tôn trọng trí tưởng tượng phóng túng và cảm xúc mãnh liệt của nghệ sỹ mà cứ bắt họ lẽo đẽo sau lưng nhà khoa học thì làm sao có tác phẩm hay? Cũng giống như bữa tiệc thịnh soạn là sản phẩm chung của người nuôi lợn, đồ tể và đầu bếp, nhưng nếu không cho đầu bếp vào hành nghề thì sao có bữa tiệc ngon?!

Phản biện dựa trên hai tiêu chí chọi nhau
- Bộ phim là sản phẩm của các nghệ sỹ là hiển nhiên. Nhưng nếu không có các nhà khoa học tham gia vào quá trình sáng tác thì làm sao bộ phim có thể chính xác với lịch sử?
- Nhà khoa học chỉ có thể tư vấn và phản biện, nếu họ tham gia trực tiếp vào quá trình sáng tác thì khác gì đòi bác sỹ phụ khoa lên giường với chị em đến khám?! Nói vui vậy thôi, nhưng quả thực, hiện nay, trong xã hội có sự lầm lẫn đánh đồng giữa tư vấn, phản biện và sáng tác. Xã hội trông cậy vào nhà khoa học quá nhiều trong việc sáng tác phim lịch sử.

Nhiều nghệ sỹ dám ngồi không đúng chỗ vì hy vọng được các nhà khoa học cầm tay chỉ việc. Sáng tác là công việc của trí tưởng tượng nghệ sỹ, không thể trông chờ các nhà khoa học sáng tác thay. Nếu không phân biệt được tư duy khái niệm của nhà khoa học và tư duy hình tượng của nghệ sỹ thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn về tiêu chí. Tôi thấy kinh hoàng trước những lời phản biện vì thấy rõ các tiêu chí chọi nhau.
- Anh có thể nói rõ hơn thế nào là mâu thuẫn trong tiêu chí?
- Có thể thấy rất rõ hiện nay, các phản biện của xã hội với bộ phim tương lai thường căn cứ trên hai tiêu chí: 1, Phải đúng với lịch sử; 2, Phải mang bản sắc Việt Nam. Thoạt nghe hai tiêu chí này đều khoa học và hỗ trợ cho nhau. Nhưng trên thực tế, hai tiêu chí này bị mâu thuẫn với nhau nên đáp ứng được cái này thì lại hỏng cái kia. Chẳng hạn như TS Nguyễn Thị Tình đã tham khảo phục trang nhà Tống để đưa vào phác thảo phục trang của Lê Long Đĩnh và cả của Lý Công Uẩn thời chưa làm vua. Đó là những phác thảo ban đầu rất đúng với lịch sử vì trong sử ghi rõ năm Bính Ngọ, Ngọa Triều Hoàng đế xuống chỉ sửa đổi quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo đúng như nhà Tống.

Nghĩa là, dưới triều đại Lê Long Đĩnh trị vì, trang phục của vua quan và tăng lữ, trong đó có Lý Công Uẩn, là trang phục nhà Tống. Thế nhưng, những phác thảo đầy tính khoa học, chính xác với lịch sử đó lại bị GS Lê Văn Lan phê phán là không mang tính Việt Nam, báo chí trích lại giật tít kiểu “Lý Thái Tổ là vua Tàu?”, rồi vẽ rắn thêm chân, bình loạn thêm làm các họa sỹ hoang mang, rối trí và dư luận xã hội ngờ vực bộ phim tương lai. Như vậy có phải là lấy tiêu chí “Phim phải mang tính chất Việt Nam” để chọi lại tiêu chí “Phim phải đúng với lịch sử” không?

Việt Nam có văn hoá ngựa xe
- Cứ cho rằng bộ phim có thể không nhất thiết đúng với sử liệu, nhưng chẳng lẽ cũng không cần phải đúng tinh thần văn hoá. Theo GS Lê Văn Lan, “văn hóa ngựa xe” vốn được bắt nguồn từ văn hóa chăn nuôi thảo nguyên chỉ có ở Trung Quốc, còn ta là nước lắm sông ngòi hồ ao, lại ít ngựa, nên không có văn hoá ngựa xe? Anh có đồng ý vậy không?
- Tôi không nghĩ như vậy. Quân xâm lược phương Bắc và quân Nguyên Mông đã sử dụng hàng vạn con ngựa để dày xéo Việt Nam, phi ngựa vào tận thành Thăng Long, hà cớ gì người Việt không thể phi ngựa trên đất Việt?

Bảo là ngựa ít không thể có văn hoá ngựa cũng không chính xác. Trung Quốc từng có hàng triệu con ngựa, nhưng sau khi nhà Hán sụp đổ rợ Hung Nô đã thống trị miền Bắc Trung Hoa và lấy ngựa đi nên khi nhà Đường thành lập cả Trung Hoa vẻn vẹn chỉ có khoảng 5.000 con ngựa. Vậy mà 50 năm sau, số ngựa của Trung Quốc đã lên tới 706,000 con. Nước mình cũng vậy thôi, lúc đầu ít ngựa, nhưng rồi ngựa của giặc mình bắt được hàng vạn con đẻ thêm ra.

Thời Lý, cụ Lý Công Uẩn đã bắt được hơn một vạn con ngựa, bắt của người Man sang ta buôn bán chui. Tức là chỉ một món chiến lợi phẩm của nhà Lý đã gấp đôi số ngựa của nhà Đường lúc mới thành lập. Dân mình thích ngựa, từ khi mới dựng nước đã có huyền thoại ngựa Gióng bay lên trời, rồi truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thuỷ nhà vua giác ngộ ngay trên lưng ngựa. Con ngựa ám ảnh tâm thức Việt Nam như vậy, thế thì tại sao nước ta lại không thể có văn hoá ngựa xe?
- Anh vừa phê phán các nhà khoa học nhầm phản biện với sáng tác, việc phân tích "văn hóa ngựa xe" của anh liệu có nhầm sáng tác sang phản biện không? Có sử liệu nào xác nhận "văn hóa ngựa xe" không?
- Thực tế là các cụ tổ ta đã sử dụng ngựa xe từ mấy ngàn năm rồi. Trong Đại Viêt Sử ký toàn thư ghi rất nhiều việc liên quan đến ngựa xe. Năm Canh thân (181 tr. Tây lịch), Hán triều sai tướng đem quân sang đánh Nam Việt. Quân nhà Hán chịu không được thủy thổ phương nam, nhiều người phải bệnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Từ đó, thanh thế Triệu Vũ Đế lừng lẫy, đi đâu dùng xe ngựa theo nghi vệ hoàng đế, như vua Nhà Hán vậy.

Từ thế kỷ thứ ba, sau khi Sĩ Nhiếp sang truyền chữ Hán cho dân ta, nhậm chức Thái thú, sử đã ghi “xe ngựa đầy đường”, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương, bọn con em thì cưỡi ngựa dẫn quân theo. Tiểu sử Sĩ Nhiếp ở Ngô Chí cũng viết như vậy. Bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh của Vua Lý Nhân Tông do thượng thư Nguyễn Công Bật soạn, kể lại cuộc đời, sự nghiệp của vua và việc xây dựng Tháp cùng một số công trình kiến trúc khác có tới 12 lần nhắc đến ngựa xe, xe giá, xe ngọc, xe phượng rồi xe châu rong ruổi đường vàng, ngày khánh thành Vua lệnh chỉnh đốn ngựa xe, rồi ngựa xe thập phương tấp nập thăm chùa, có thể hình dung như bãi xe máy bạt ngàn ở cạnh phủ Tây Hồ bây giờ ấy. Các cụ ta còn lập ra viện Mã chính chuyên chăm lo nuôi dạy ngựa, đời Lê có thêm chức quan Ngự mã chuyên phụ trách các việc về ngựa, đời Nguyễn có cả sách về Mã chính, quy định chi tiết việc chọn ngựa, nuôi ngựa, khám bệnh cho ngựa, quy định phép tắc của ngựa thồ, ngựa liên lạc, ngựa biểu diễn, ngựa chiến v.v..

Một kịch bản khác
- Anh có vẻ nắm vững sử liệu như một nhà nghiên cứu?
- Thì tôi vốn là người nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trước khi đi học đạo diễn nên trong nhà sẵn các loại sách vở và tài liệu. Hai năm nay, để viết hai kịch bản tham gia đấu thầu đạo diễn, tôi phải tra cứu nhiều nên nhớ. Kịch bản của tôi cũng khai thác nhiều tình tiết liên quan đến ngựa, chẳng hạn hư cấu chuyện Châu Vị Long câu kết với Đào Khánh Văn mưu phản đã dâng Bạch mã cho Lý Công Uẩn để gài giám mã làm gián điệp, sau này đức độ của Lý Công Uẩn và Hoàng hậu đã thu phục được viên giám mã và vì thế phá tan âm mưu ám sát Hoàng đế của đám này.

Khi việc xây thành Thăng Long gặp nhiều trắc trở do bọn đạo sỹ thuộc phe chống đối hoang tin đánh vào sự mê tín của dân Đại La, Lập Giáo Hoàng hậu đã bố trí cho con Bạch mã này phi qua cửa đền trong đêm lúc vua Lý Công Uẩn khấn thần Long Đỗ, giải toả những lo lắng của nhân dân. Khi biết tin con trai là Khai Quốc vương Bồ làm phản, chiêu tập bọn tù nhân được cha phóng thích để nhũng nhiễu cướp bóc ức hiếp nhân dân, Lý Công Uẩn đã căm phẫn nhảy lên lưng Bạch mã lao trong mưa phi đến phủ Trường Yên tìm Khai quốc vương Bồ để hỏi tội, nhưng đã bị đột quỵ trước khi gặp con trai.
- Những tình tiết này có được đưa vào bộ phim tương lai không?
- Hiện nay thì chưa, vì những tình tiết này nằm trong kịch bản Người cha của Thăng Long là kịch bản văn học tôi viết mới hoàn toàn. Tôi chỉ bán bản quyền kịch bản Thái tổ Lý Công Uẩn là kịch bản tham gia đấu thầu, viết lại, nâng cao kịch bản của Thiên Phúc theo hướng xử lý của mình. Trong kịch bản này cũng có hàng trăm trang viết mới liên quan cuộc đời Lý Công Uẩn từ lúc mười hai tuổi đến lúc dời đô với những xung đột của quá trình dời đô, liên quan đến các phe phái, các tôn giáo và văn hoá tâm linh thời Lý.
- Có phải đây là kịch bản anh đã đăng ký bản quyền tác giả? Vấn đề này ông Lê Đức Tiến đã đề cập…
- Không, tôi không đăng ký bản quyền kịch bản này vì có một số trang giữ lại kịch bản của Thiên Phúc. Tôi cũng không ngớ ngẩn đăng ký bản quyền những nhân vật và sự kiện đã có trong sử sách. Tôi chỉ đăng ký bản quyền kịch bản văn học Người cha của Thăng Long, trong đó tôi hư cấu những xung đột, những câu chuyện, những nhân vật, những tình tiết và chi tiết không có trong chính sử viết về quá trình Lý Công Uẩn dời đô và định đô. Tôi đăng ký bản quyền vì khi biết Hà Nội không dùng kịch bản của tôi, một vài đối tác muốn đầu tư sản xuất phim theo kịch bản này, họ muốn giữ bản quyền.
- Vì sao anh không bán bản quyền kịch bản Người cha của Thăng Long cho Hãng phim truyện VN để có thể đưa những điều mình tâm đắc vào kịch bản một bộ phim được đầu tư lớn?
- Vì kịch bản này viết theo hướng nhân văn, khai thác các xung đột tôn giáo và hoàng tộc, lại dẫn dắt câu chuyện đến tận khi Lý Công Uẩn chết, các Hoàng tử bất mãn làm phản và Lê Phụng Hiểu đã phò Thái tử Phật Mã vượt qua loạn Tam vương.

Viết những chuyện này, tôi muốn nói lên sự sáng suốt của Lý Công Uẩn đã biết nhìn xa khi sớm có ý thức đào tạo người kế vị, phong Thái tử cho Phật Mã và chuẩn bị sẵn cho Phật Mã những tướng tài tận tâm như Lê Phụng Hiểu, vì thế nhà Lý mới vượt qua được Loạn Tam Vương để trường tồn tới hai trăm năm với nhiều đóng góp xây dựng văn hoá Thăng Long.

Hội đồng có nhiều ý kiến thích, nhưng cũng có ý ngại rằng thể hiện những nỗi đau của Lý Công Uẩn như vậy sẽ không hợp với một phim kỷ niệm. Vì thế, tôi không muốn bán, sợ rằng không dùng được sẽ phí. Hai nữa, mình cũng muốn tự tay thắp vài nén hương trước bàn thờ cụ Lý, chứ không muốn đưa tất cả hương cho nhà đền tuốt ra lấy thuốc làm hương mới.
- Nghĩa là…?
- Nghĩa là, tôi muốn được tự tay bổ sung những tình tiết chi tiết hay trong kịch bản này vào phân cảnh. Nếu bán cả hai, mình sẽ được thêm ít tiền, nhưng nếu những người viết lại kịch bản không đưa của mình vào thì coi như kịch bản của mình bị vứt đi. Lúc đó không thể đưa được gì vào phân cảnh, cũng không thể đưa cho đối tác khác làm phim.
- Xin cám ơn anh!

Hoàng Hường thực hiện (VNN)