Đông Tác

Blog

Trang nhà > Con người > Sinh thái > Những trận vỡ đê lịch sử ở miền Bắc

Những trận vỡ đê lịch sử ở miền Bắc

Thứ Năm 10, Tháng Giêng 2008, bởi Cong_Chi_Nguyen

Từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX, thống kê chưa đầy đủ theo chính sử cũng đã có 188 năm bị thủy tai, kèm theo thảm họa lớn: vỡ đê. Đến thời Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên ghi nhận 82 năm đầu của triều Nguyễn đã có 52 năm lụt lội, vỡ đê. Theo các chuyên gia về đê điều thì sử sách từ triều Lý (trở đi) mới có những ghi chép liên tục về chuyện vỡ đê, nhưng cũng chỉ ghi lại những năm lụt lớn.

Trong trận lũ năm 1971, ngành giao thông đã điều hẳn một đoàn tàu chở đầy đá hộc để ém trên cầu Long Biên vì sợ trôi cầu - Ảnh tư liệu TTXVN

Đầu tiên, vào triều Lý Nhân Tông năm thứ 7 (Mậu Ngọ, 1078) nước lụt tràn ngập trong thành. Cũng triều Lý Nhân Tông năm thứ 50 (Tân Sửu 1121) mùa hạ tháng 5, nước to tràn vào đến ngoài cửa Đại Hưng. Hẳn đã vỡ thì nước mới tràn như vậy, dù 0a7 co đê Cơ Xá được đắp để bảo vệ kinh thành từ năm 1108.

Triều Trần, lụt lội hoành hành không kém. Năm Bính Thân 1236, triều Trần Thái Tông năm thứ 12, tháng 6, vỡ đê, nước ngập cung Lệ Thiên. Hai năm sau, năm Mậu Tuất 1238, mùa thu tháng 7, nước to, đê vỡ, ngập cung Thưởng Xuân. Đến năm Quý Mão 1243, nước lụt còn phá vỡ cả thành Đại La.

Năm Canh Ngọ 1270, triều Trần Thánh Tông, mùa thu tháng 7 nước lũ to. Các đường phố và kinh thành đều phải đi lại bằng thuyền. Như vậy cũng có nghĩa là đê sông Hồng và hệ thống đê quanh kinh thành đã bị vỡ nhiều nơi.

Đến triều Lê, mặc dù đê điều đã được củng cố và có tổ chức hộ đê hẳn hoi, nhưng lụt lội vẫn là nỗi kinh hoàng. Năm 1445, triều Lê Nhân Tông, nước sông lên to, ngập vào trong thành sâu đến 3 thước, lúa mạ tổn hại đến 1/3 cả nước. Năm Đinh Hợi 1467, Lê Thánh Tông năm thứ 7, nước biển dâng cao, gió bão rất lớn, đê điều bị vỡ, thóc lúa bị ngập, nhiều người chết đói. Năm Tân Hợi 1491, tháng 8 mùa thu mưa rất to suốt ngày đêm không ngớt. Nước lũ lên dữ dội. Điện Kính Thiên nước ngập sâu 2 thước 2 tấc.

Năm Canh Ngọ 1630, triều Lê Thần Tông, mùa thu tháng 8 nước sông Nhị tràn vào, nước chảy trên đường phố Cửa Nam như thác, phố phường nhiều người chết đuối. Liên tiếp các năm Tân Mùi 1521, Nhâm Thân 1632, cung điện nhà vua đều bị ngập lụt.

Đến thời Gia Long, năm 1802, Bắc thành nước lớn, đê vỡ. Năm 1809, Bắc thành bão lụt tràn ngập. Năm Giáp Thìn 1844, nước sông Nhị lên đến hơn 10 thước, đồng ruộng Hưng Yên, Hà Nội, Nam Định, Quảng Yên đều bị ngập.

Trong các triều vua Nguyễn thì triều Tự Đức có nhiều lũ lụt nhất, đồng bằng Bắc bộ vỡ đê liên miên vì đê điều ít được tu sửa. Đê Văn Giang (Hưng Yên giáp Hà Nội) vỡ 18 năm liền, từ 1863-1886 dân cư phiêu bạt, xóm làng trở thành đầm lầy.

Thời Pháp, cứ ba năm thì có một năm đê vỡ. Các trận lụt năm 1893, năm 1915 làm bốn tỉnh hữu ngạn sông Hồng ngập chìm trên ba tháng trời, tác động mạnh đến dư luận nước Pháp, buộc thực dân Pháp phải thực hiện một số kế hoạch củng cố đê điều.

Tại lưu vực và các khu vực ven sông Hồng đã xảy ra hai trận lũ đặc biệt lớn vào tháng 8/1945 và tháng 8/1971, làm vỡ đê nhiều nơi. Trận lũ năm 1971 được ghi nhận là trận lũ lớn nhất trong vòng 100 năm qua ở sông Hồng.

Năm 1945, khi Cách mạng đang diễn ra thì lũ trên các sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình lên rất cao. Khi lũ sông Hồng chưa lên đến đỉnh, chính quyền đã cho mở đập Đáy (Đan Phượng, Hà Tây, nay là Hà Nội) để tiêu bớt lũ cho sông Hồng. Bảy cửa đập Đáy (mở) được hạ thấp từ từ trong bảy giờ liền, đỉnh cửa đã từ 12,5m xuống 11,5m. Dự định mở hết cỡ đưa mặt cửa đập nằm ngang ở 7m như thiết kế. Nhưng hạ xuống đến 10,5m thì tất cả các cửa không xuống được nữa mà có biểu hiện dập dềnh như đã gặp trong lần mở năm 1940.

Sáng 19-8-1945 cửa số 1 phía Sơn Tây thình lình sập hẳn mặc dù đã dùng mọi biện pháp ép khí vào, cửa cũng không lên được tạo thành một thác nước khủng khiếp xoáy vào khoang số 1. Kết quả là khoang số 1 bị phá hủy hoàn toàn, phải lấp bỏ vĩnh viễn. Đập Đáy vỡ, kéo theo 52 đoạn đê thuộc sông Hồng, sông Thái Bình và các con sông khác (trừ đoạn thuộc Hà Nội) bị vỡ. Tổng diện tích bị ngập lụt lên tới 321 ha.

Cách mạng Tháng Tám diễn ra đúng vào những ngày lũ lịch sử và việc hàn đê chống lụt trở thành công việc đầu tiên của nhà nước Việt Nam vừa giành được độc lập. Tấm bằng khen đầu tiên được trao cho việc này. Hồ Chủ tịch khi đó đi xuống tận Hưng Yên, Thái Bình để đôn đốc. Chính Hồ Chủ tịch là người ủng hộ sáng kiến đổi mới cho việc hộ đê bằng việc kêu gọi tư nhân “đầu tư” và chấp nhận “đấu thầu” trong các công trình củng cố đê điều...

Gần nữa, trận lũ năm 1969 và 1971 được các chuyên gia ghi vào lịch sử bởi vỡ đê hàng loạt đã làm cho gần 100.000 dân đồng bằng sông Hồng bị chết...