Nguyễn Anh Huy

Tổ chức đúc tiền và lưu hành tiền tệ ở Đàng Trong

Nguyễn Anh Huy và bản thảo Tiền cổ học Việt Nam, sơ truy và lược khảo của anh

Một nửa, nửa phía Nam của Việt Nam ngày nay, đất của Champa cũ, hình thành và nhất thống được, là do hai cuộc di dân để giữ biên ải phía Nam nước Đại Việt, nhưng nguyên nhân sâu xa thì khác nhau và tạo hệ quả khác nhau...

- Cuộc di dân năm 1306 theo Huyền Trân công chúa vào Ô-Lý, chỉ để giữ một cống phẩm và trở thành Thuận Hoá của Đại Việt, mục đích để thông hiếu với Champa...

- Nhưng cuộc di dân vào Thuận Hoá năm 1558 của Thái tổ Nguyễn Hoàng, sự ly khai của một dòng họ, mục đích là tìm tự do "thái bình" cho mình. mà từ đó cát cứ, hình thành nên tư tưởng lớn... Nam tiến, tạo nên một Đàng Trong, rồi... nhất thống Đàng Ngoài để thành Việt Nam ngày nay!

...Thương cảng cổ Thanh Hà ở Thừa Thiên Huế, cửa ngõ quan trọng nhất để phát triển đô thị Phú Xuân, nhiều nhà nghiên cứu đã dựa vào văn bản để cho rằng được hình thành năm 1636(1), nhưng theo tôi, e chưa chính xác!, mà phải hình thành sớm hơn, tức khoảng thời Trần. Bởi quan sát về địa lý, thương cảng này rất gần thành cổ Hoá Châu, chỉ cách một con sông; trong khi có quân đội giữ thành Hoá Châu, "dinh (doanh trại)" thì phải có "thị (chợ đò mua bán)" để phục vụ! Tuy rằng thời Trần không có xưởng đúc tiền tại Hoá Châu để cho quân đội ở đây dùng, nhưng sự giao thương hằng ngày buộc phải đem theotiền triều đình để sử dụng(2).

Thời Lê-Mạc, tiền của các triều đại này vẫn được lưu hành ở Thuận Hoá(3)... Cho đến khi Đoan Quận Công vào trấn thủ, khai hoang lập ấp... thì sự lưu hành tiền tệ ở đây có sự đột biến lớn... Để rồi sau cuộc ra Thăng Long của Nguyễn Huệ cũng như cuộc nhất thống năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh, đây là trung tâm chính trị cả nước, và cũng là nơi ban hành các chính sách về tiền tệ...

THỜI CHÚA NGUYỄN

Thị trường mới khai phá...

Chính sử nước ta, việc ghi chép cách sử dụng tiền tệ ở xứ Đàng Trong rất tiếc quá sơ sài. Christophoro Borri, một người châu Âu đến Đàng Trong năm 1621 cho biết: "Người Tàu và người Nhật là những người làm thương mại chính ở xứ Đàng Trong"(4). Và theo thống kê số lượng thuyền có cấp giấy phép châu ấn, do chính quyền Nhật cấp cho các thuyền buôn Nhật Bản xuống Đông Nam Á, trong 30 năm (1604-1635) gồm 356 thuyền, thì trong đó có 87 thuyền đến Đàng Trong, chiếm số lượng cao nhất(5).

Sở dĩ thương gia Trung-Nhật thích buôn bán nhiều ở Đàng Trong, ngoại trừ đây là thị trường mới khai phá, còn có những điểm thuận lợi là ở đây nằm trong khối đồng văn, cùng tiếng nói chữ viết; hơn nữa, tình hình an ninh rất ổn định: "Canh Ngọ, năm thứ 13, ...Chúa [Nguyễn Hoàng] bèn kiêm lãnh hai xứ Thuận Quảng, Quảng Nam... Bấy giờ chúa trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một đô hội lớn"(6); ngoài ra, các chúa còn khôn ngoan: "Chúa [Nguyễn Phúc Nguyên] lên nối ngôi... vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục..."(7) và "chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở của cho tất cả người ngoại quốc"(8).

Hiện ở Nhật Bản vẫn còn lưu trữ "Ngoại phiên thông thư", là những thư từ giao dịch quốc tế của Nhật thời Edo (1603-1687); trong đó có 56 bức thư của chúa Trịnh và chúa Nguyễn gởi cho Mạc phủ Tokugawa và những thư trả lời của Mạc phủ từ năm 1601 đến 1694. Nội dung nhiều thư cho thấy các chúa rất coi trọng quan hệ với Nhật Bản, luôn tạo thuận lợi cho tàu buôn Nhật Bản "thông qua thương nghiệp để nối tình hữu nghị giữa hai nước"(9).

Sự giao lưu thương mại phát triển rộng mở, do vậy lưu thông tiền tệ là một nhu cầu thiết yếu. Nhưng mãi đến năm 1688, ở Đàng Trong vẫn thiếu khối lượng tiền lưu hành; như ta thấy bức thư của chúa Nguyễn Phúc Thái, phó thác cho một chủ thuyền người Trung Hoa tên Hoàng Khoan Quan đem hàng hoá sang Nagasaki mua bán và trình Shogun Dymitsu (Mạc Phủ Đức Xuyên) thỉnh cầu đúc tiền đồng viện trợ như sau: "Quý quốc và quốc gia tôi xa nhau... Nghe nói rằng ngày xưa, tuy xa nhau vẫn có quốc giao... Tôi thầm nghĩ, nước tôi bây giờ cần rất nhiều kinh phí cho lưu thông tiền tệ, nhưng kỹ thuật chế tạo tiền tệ không có, nên đành phải gác vấn đề tài chính lại. Tôi nghe rằng, ở quý quốc sản xuất đồng tốt, và chế tạo tiền tuỳ theo nhu cầu. Nếu thật như thế , tại sao không chế thật nhiều tiền bằng đồng để cứu những nước nghèo về tiền tệ. Điều mong muốn đối với quý quốc làm luật lưu thông tiền tệ ở nước ngoài, và giao dịch ở nước tôi và hai quốc gia chúng ta cùng được lợi..."(10).

Từ nhu cầu lưu hành tiền...

Giữa xứ Đàng Trong và khối đồng văn như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên đều sử dụng chung một loại tiền và không phân biệt; mối quan hệ ngoại thương đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tổng hợp (11), ở đây chỉ trích dẫn một vài điều có liên quan đến tiền tệ...

Từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVI, người Nhật đã nhập tiền Vĩnh Lạc Thông Bảo từ Trung Quốc để sử dụng. Nhưng đến năm 1608, chính quyền Nhật cấm các loại tiền này để dần chuẩn hoá tiền nước mình; và đây là cơ hội để các thương gia Nhật đem các loại tiền cũ này xuống bán cho Đàng Trong (12) mà người Hà Lan gọi là "món hàng có lời nhất"(13):

- Tháng giêng năm 1637, lái Hà Lan đã mang đến cửa Hàn (Tourane-Đà Nẵng) 13.500.000 đồng zènes [tiền đồng của Nhật](14).

- Ngoài người Hà Lan ra, người Trung Quốc cũng đem đến Đàng Trong một số lượng lớn tiền Nhật. Chẳng hạn, vào tháng 9/1637, 4 chiếc thuyền của người Hoa chở từ Nhật tới Đàng Trong... 2 triệu zènes(15).

- "Tiền đồng này là một món hàng nhập cảng được đòi hỏi nhiều nhất ở Đàng Trong... Những lái Nhật thật là những tay cạnh tranh đáng sợ. Những tiền đồng họ mang từ Nhật sang, bao giờ họ cũng bán lại cho những kiều dân Nhật ở Faifoo..."(16).

Nguyễn Anh Huy và bản thảo Tiền cổ học Việt Nam, sơ truy và lược khảo của anh

Ban đầu, các chúa Đàng Trong mua tiền đồng này chủ yếu để đúc súng chống lại Đàng Ngoài. Nhưng trong một môi trường của nền kinh tế hàng hoá, và thiếu khối lượng tiền lưu hành nên nó cũng trở thành nhu cầu sử dụng hoá tệ ngày càng tăng:

- "Thuyền Nhật... đổi hàng ở Trung Quốc... nhất là đồng... các thuyền mua (đem đến Đàng Trong) từ Quảng Đông: tiền đúc được lãi rất nhiều..."(17).

- Cho đến năm 1776, Lê Quý Đôn cho biết: "Tiền Khai Nguyên nhà Đường và tiền Thuần Hoá, Tường Phù nhà Tống, luyện đồng rất tốt, chôn xuống đất không nát. Chữ ở tiền nhà Tống phần lớn là chữ vua viết... Năm Giáp Ngọ, quân nhà vua vào Thuận Hoá, biên kho tàng, hơn 30 vạn quan xâu bằng mây, đều là tiền tốt, một đồng không lẫn, mới biết từ trước đều do thuyền buôn chở về đấy..."(18).

Đến việc đúc tiền ở Thuận Hoá-Phú Xuân...

Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) làm bài thơ "Thuận Hoá vãn thị" (Cảnh chợ chiều Huế) trong đó có câu: "Thời cô bạch tửu năng diên khách/Nhật dụng thanh tiền khước tiện dân"(19), hàm ý thời ấy chưa đúc ra tiền bằng đồng thau (thanh tiền) là một việc giúp cho dân tiện lợi khi sử dụng hàng ngày.

Năm 1776, Lê Quý Đôn ghi lại một sự kiện ở xứ Đàng Trong: "Theo lệ cũ nhà Nguyễn, người nào mới được nối ngôi chúa thì cứ theo kiểu mẫu tiền cũ mà đúc, ở khoảng nhỏ đồng tiền cũng đề hai chữ Thái Bình..."(20). Theo sự thống kê sơ bộ và nghiên cứu của chúng tôi, hiện tại có 9 loại tiền Thái Bình Thông Bảo khác nhau, phần nào gần trùng hợp với con số 9 của 9 đời chúa Nguyễn. Và hai chữ "Thái Bình" trên hệ thống tiền mà các chúa theo lệ phải đúc, là một hình thức là luôn ghi nhớ sự tích "Từ thuở mang gươm đi mở nước", cũng như để nhắc nhở di huấn của chúa Tiên(21).

Đại Nam Thực Lục cho biết: Tháng 4 Ất Tỵ (1725), Nguyễn Phúc Thụ mới lên ngôi, "Đúc thêm tiền đồng. Buổi quốc sơ thường đúc tiền đồng nhỏ (in hai chữ Thái Bình), lại có tiền cũ và tiền Khang Hy nhà Thanh, dân gian vẫn thông dụng. Bấy giờ có người huỷ tiền để đúc đồ dùng, số tiền cũ ngày một hao, cho nên có lệnh đúc thêm"(22). Nhưng "Hai xứ Quảng Nam và Thuận Hoá không có mỏ đồng, nước Nhật Bản thì thổ sản có nhiều đồng đỏ nên hàng năm tàu nước ấy chuyên chở đồng đến nước ta bán, nhà nước phái người đến thu mua"(23). Song do kỷ thuật đúc tiền còn kém nên chúa thường nhờ nước ngoài giúp đỡ: "Năm 1733, thấy việc đúc tiền có lợi, công ty Đông Ấn-Hà Lan nhận với chúa đúc tiền đồng với trị giá 800.000 florins (1 florins = 27g bạc). Được một năm, thấy không có lãi mấy, công ty thôi"(24).

Các loại tiền bằng đồng đỏ do Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Thụ đúc này thường mang các hiệu tiền của Trung Quốc hoặc các hiệu lạ nhưng có thư pháp và kỹ thuật đúc tiền Việt Nam đương thời, thỉnh thoảng hay gặp ở các di tích thế kỷ XVIII; đến nay, tôi đã phát hiện 21 hiệu tiền(25).

Đến thời "Hiểu Quốc Công Nguyễn Phúc Khoát nghe lời người khách nước Thanh họ Hoàng, mới mua kẽm của nước Hoà Lan để đúc tiền, mở trường đúc ở xã Lương Quán... vành và nét chữ theo dáng tiền Tường Phù nhà Tống... Lại nghiêm cấm đúc riêng nên tiền ít khi mỏng quá, việc công việc tư đều tiên tiêu dùng... Thế rồi người ta cất chứa tiền đồng không cho phát ra, lâu dần người quý thế tranh nhau xin đúc thêm đến hơn trăm lò, gọi là tiền Thiên Minh Thông Bảo..."(26). Chỉ tính riêng trong 3 năm đầu, Lê Quý Đôn co biết: "Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn (1746, 1747, 1748) đúc được 12.396 quan"(27).

Những đồng tiền cổ chưa xác định được niên hiệu

Việc đúc tiền kẽm này quá phát triển tạo nên cơn sốt kẽm (toutenague) mà chỉ "mới 2 năm nay, nước Mã Cao đem kẽm đến bán, không kém 15 vạn cân, tuyệt không cấm đoán"(28), làm thương gia Pierre Poivre của Pháp cũng sốt sắng xin chúa đúc giúp tiền kẽm. Và rồi "năm 1755, công ty Hoà Lan thoả thuận với Võ Vương là hàng năm sẽ nhận một số tiền đúc trị giá 600.000 florins với điều kiện nộp cho chúa 12% và cho cai bạ 2%.."(29). Sự xuất hiện của tiền kẽm gây nên nhiều phức tạp trong quá trình giao lưu thương mãi mà Pierre Poivre, đặc phái viên của công ty Đông Ấn-Pháp đến xứ Đàng Trong năm 1749 cũng nói: "...việc thương mãi của xứ này đang bị xáo trộn vì sự lưu hành một thứ tiền kẽm, nó gây ra nhiều sự gian trá, độc quyền và rối ren đủ thứ. Các tệ hại này không thể tồn taị lâu được, nhưng tôi không thể biết trước bao giờ sẽ chấm dứt"(30); còn Dật sĩ Thuận Hoá là Ngô Thế Lân, đã làm bài "Luận tiền tệ" được Lê Quý Đôn chép lại trong Phủ Biên Tạp Lục, trong đó có đoạn sau: "...thế mà từ năm Mậu Tý đến nay, giá thóc cao vọt, nhân dân đói kém là cớ làm sao? Thần trộm nghĩ không phải thiếu thóc mà chính tiền kẽm gây nên vậy". Các loại tiền kẽm này, ngày nay rất dễ tìm thấy ở các di tích thế kỷ XVIII, hiện nay tôi đã thống kê được 85 hiệu tiền.(31).

Việc đúc tiền tại Phú Xuân là thủ phủ Đàng Trong còn chưa đáp ứng được nhu cầu, chúa Nguyễn còn cho phép thuộc hạ của mình đúc tiền: "Mùa Xuân năm Bính Thìn, Túc Tông hoàng đế thứ 11 (1736), lấy Thiên Tứ làm Đô đốc trấn Hà Tiên, ban cho ba chiếc thuyền long bài, miễn cho thuế má. Lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc buôn bán..."(32); và "Họ Mạc đúc tiền cỡ nhỏ, hiệu Thái Bình-An Pháp, được lưu hành vào xứ Thuận Hoá"(33). Theo kết quả nghiên cứu của tôi, tiền do Mạc Thiên Tứ đúc tại Hà Tiên có đến 45 hiệu tiền bằng đồng thau, nhỏ mỏng đường kính khoảng 20-21mm, thường được tìm thấy trong các di tích thế kỷ XVIII ở Thuận Hoá-Phú Xuân.

Ngoài việc sử dụng lại các tiền đồng, kẽm mới đúc hoặc các loại tiền Trung Quốc - Nhật Bản -Triều Tiên, chúa Nguyễn còn sử dụng cả bạc nén là một loại trữ tệ trước đây chưa thấy dùng, và cả các loại tiền bằng bạc của Tây phương như một thứ ngoại tệ. Năm 1749, Pierre Poivre đến Thuận Hoá xin chúa "cho thông dụng đồng quan Pháp đóng thêm dấu "thông báo" và ăn ngang 1 quan 3 tiền ta". Mặc dù tiền bằng bạc của Tây phương là các loại tiền lạ, dân gian chưa thật tin cậy như trong nhật ký của Pierre Poivre đã nói: "Ở xứ này, họ không biết giá trị của đồng piastre của chúng ta"(34), nhưng thực tế cho thấy các loại tiền châu Âu vẫn được sử dụng: Năm 1993, anh Trần Tiễn Tâm ngụ cư ở Thanh Hà (Minh Hương-Thừa Thiên Huế), trong công việc đồng áng đã đào được nhiều loại tiền bằng bạc của Tay phương cùng nhiều bạc nén thời chúa Nguyễn; tôi có đến xem thấy phần lớn là tiền của Hispan (Tây Ban Nha) và Belg (Bỉ), đồng xưa nhất là năm 1741 và mới nhất là năm 1759.

Chú thích

(*)ThS., Nhà nghiên cứu tiền cổ, Thành phố Huế.

(1).Chẳng hạn, xem ChengChingHo, "Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên", Huế Xưa & Nay, số 13 và 14.

(2).Khoảng năm 1998, những cuộc ra tìm phế liệu ở đây , doc bờ sông, đã tìm thấy một lô tiền thời Trần chỉ mang hai hiệu Thiệu Phong (1341-1357) và Đại Trị (1358-1369), số lượng tuy không nhiều như các loại tiền khác, nhưng có thể nói nhiều nhất từ trước tới nay (so với cả nước) để bổ túc cho các nhà sưu tập...Tiền thời Lý-Trần, theo Đại Việt Sửu Ký Toàn Thư và Lịch Triều Hiến Chương Đại Chí, đã bị Hồ Quý Ly cấm dùng, thu huỷ để đúc vũ khí, sau đó lại bị quân Minh vơ vét, nên ngày nay rất hiếm hoi, trước năm 1998, tìm được một đồng đã rất khó. Lô tiền tìm thấy gần Hoá Châu và Thanh Hà kể trên, có được cả hàng trăm đồng tiền thời Trần, giới buôn tiền cổ trúng lớn nên dấu nhẹm, không dám nói rõ tung tích, chỉ bán rỉ rả, nhưng vì ý nghĩa khảo cổ học lịch sử nên tôi đã hỏi dò ra được.

(3).Xem thêm: Nguyễn Anh Huy, "Ảnh hưởng của sự lưu hành tiền tệ đến sự phát triển kinh tế đô thị Phú Xuân", Hội thảo 310 năm Phú Xuân-Huế, Huế, 1997.

(4).Christophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, NXB Thành Phố HCM, 1998, tr.89.

(5).Nguyễn Văn Kim, Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ 15-17, NXB Đại học Quốc gi Hà Nội, 2003. Bảng 3.1, tr.125-126.

(6).Quốc sử quán triều Nguyễn (Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch), Đại Nam Thực Lục, NXB Giáo Dục, Đà Nẵng, 2004,Tập 1, tr.29-31.

(7).Quốc sử quán triều Nguyễn, sđd, tr.38.

(8).Christophoro Borri, sđd, tr. 92.

(9).Kawamoto Kuniye, "Nhận thức của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Ngoại phiên thông thư", Đô thị cổ Hội An, NXB KHXH, Hà Nội, 1991,tr.171.

(10).Kawamoto Kuniye, sđd, tr.177.

(11).Chẳng hạn như:-Thành Thế Vỹ, Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ 17, 18 và đầu 19, NXB Sư học, Hà Nội, 1961.-Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong , NXB Văn học, 2001.-Li Tana, Xứ Đàng Trong-Lịch sư, kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, 1999.

(12).Li Tana, sđd, tr.136.

(13).Dagh, Register ghouden int Casteel Batavia Vant, dẫn lại theoLi Tana, sđd, tr.138.

(14)Thành Thế Vỹ, sđd, tr. 148.

(15).W.J.Buch, De Oost-Indische Compangie en Quinam, Amsterdam, H,J.Paris, 1929. Dẫn lại theo Li Tana, sđd,tr.138.

(16)..W.J.Buch, La Compagnie des Indes Neerlandaises et l’Indochine, dẫn lại theo Thành Thế Vỹ, sđd, tr104.

(17).Bowyear, Nhật ký về Đàng Trong năm 1695, dẫn lại theo Thành Thế Vỹ, sđd, tr.226-227.

(18).Lê Quý Đôn, (Lê Xuân Giáo dịch), phủ biên tạp lục, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá, Sài Gòn, 1972

Li Tana, sđd, Tr.235-236 có giải thích rằng: "Bị ám ảnh bởi nền văn hoá Trung Hoa, Lê Quý Đôn đôi khi đã lầm tiền đồng Nhật thành tiền đồng Trung Hoa. Chẳng hạn ông nói là vào năm 1774, quân chúa của chúa Trịnh đã tìm thấy hơn 300.000 quan tiền đồng tốt nhất trong kho của họ Nguyễn tại Huế. Theo ông, đa số là tiền đồng Trung Hoa thời Tống (960-1279), và khi họ Nguyễn đúc tiền kẽm vào thập niên 1740, họ đã nhái lại dáng kiểu của đồng tiền Tường Phù của Trung Hoa (1008-1016). Tuy nhiên, nếu chúng ta so sánh đồng tiền kẽm có khắc các chữ Tường Phù Thông Bảo, rất có thể là do họ Nguyễn đúc vào thập niên 1740, chúng ta sẽ thấy nó khác với đồng Tường Phù của Trung Hoa đời nhà Tống. Phải hơn, đồng tiền này nhái lại đồng Shofu gempo [Tường Phù Nguyên Bảo] của Nhật, một trong những đồng tiền Nhật phổ biến nhất được đúc theo đồng tiền Trung Hoa đời nhà Tống và nhà Minh. Đồng tiền này được đúc tại Nagasaki giữa các năm 1659 và 1684, cũng có những chữ Hán như vậy nhưng theo một mẫu khác. Do đó, rất có thể là trong số 300.000 quan tiền đồng tìm thấy trong kho của họ Nguyễn vào năm 1774, một phần lớn là tiền Nhật".

Cách giải thích trên của Li Tana hoàn toàn đúng trên lý thuyết, nhưng lại không chính xác vì thực tế tìm hiểu, tôi nhận thấy tiền lưu hành ở Đàng Trong đa số là tiền Trung Quốc, tiền Nhật cũng có nhưng rất ít. Như vậy, cách giải thích của Lê Quý Đôn phù hợp hơn. Ngay cả tiền mậu dịch của Nhật đúc tại Nagasaki cũng chỉ sử dụng lại các hiệu tiền của Trung Quốc, vậy thì chúa Nguyễn nhờ Hoa kiều đúc tiền Tường Phù thì hiệu tiền này cũng lấy lại theo hiệu tiền Trung Quốc chứ không thể giải thích là theo kiểu Nhật.

(9).Phạm Hy Tùng, Cổ vật gốm sứ Việt Nam đặt làm tại Trung Hoa, NXB Văn Hoá Sài Gòn, 206, tr.110.

(20).Lê Quý Đôn, sđd, Tr. 46.

(21).Đại Nam Thực Lục kể rằng, lúc lâm chung, Thái tổ Nguyễn Hoàng đã dạy hoàng tử thứ 6 (tức chúa Sãi -Nguyễn Phúc Nguyên) những lời sau: "Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở,...thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi lại với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Vì bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta". Có thể vì di huấn "xây dựng cơ nghiệp muôn đời..."(tạo sự "thái bình" cho dòng họ của mình) này mà các chúa theo lệ phải đúc tiền "Thái Bình"; đây là một đề tài riêng biệt tôi đã tìm hiểu kỹ nhưng chưa có dịp công bố.

(22).Quốc sử quán triều Nguyễn, sđd, Tr. 139.

(23).Lê Quý Đôn, sđd, tập 2, tr.44.

(24).Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang, Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam (1427-1858), Quyển 2, tập 1, Sách Đại Học Sư Phạm, NXB Giáo Dục, 1977, Tr.159.

(25).Nguyễn Anh Huy, "Những phát hiện mới về tiền đồng đỏ thời chúa Nguyễn", Khảo cổ học, số 2/2003: 79-86.

(26).Lê Quý Đôn, sđd.

(27).Lê Quý Đôn, sđd. Li Tana, sđd, cho rằng số tiền này là 72396 quan, có lẽ nhầm.

(28).Lê Quý Đôn, sđd.

(29).W.J.Buch, La Compagnie des Indes Neerlandaises et L’Indochine, dẫn lại theo Thành Thế Vỹ, sđd, Tr.149.

(30).Phan Khoang, sđd.

(31).Xem thêm: Nguyễn Anh Huy, "Những phát hiện mới về tiền kẽm thời chúa Nguyễn", Khảo cổ học, số 1, năm 1998, Tr.97-103.

(32).Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Tự Thanh dịch), Đại Nam liệt truyện tiền biên, NXB KHXH, 1995.

(33).Lê Quý Đôn, sđd. Xem thêm: Nguyễn Anh Huy, "Những phát hiện mới về Họ Mạc đúc tiền..", Khảo cổ học, số 3 năm 2001.

(34).Li Tana, sđd. Vì đoạn nhật ký này mà một số nhà nghiên cứu vè sau đã cho rằng thời Pierre Poivre (giữa thế kỷ XVIII) đã có đúc đồng tiền "Piastre de Commerce", điều này là hoàn toàn nhầm lẫn! Chữ "piastre" do Pierre Poivre viết trong nhật ký mang ý nghĩa khái niệm "đồng tiền bằng bạc" (cũng như khái niệm "đồng tiền" của ta) và đồng tiền bằng bạc (piastre) đó chính là những đồng tiền phương Tây như đồng Hispan và Belg... đã nói. Khác hẳn đồng "Piastre de Commerce" do Ngân hàng Đồng Dương-Pháp đúc sau này từ năm 1789, thì chữ "piastre" ở đây lại mang ý nghĩa một loại đơn vị tiền tệ!

Riêng điều cho rằng khi Pierre Poivre xin lưu hành các đồng bạc phương Tây có đóng dấu "thông bảo" (hai chữ Hán mang ý nghĩa "báu tệ lưu hành") thì cũng chưa đúng hẳn. Thật ra, khi cho lưu hành nó, chúa sai các lò thợ bạc (trong đó có người tên "Xuân") thử tuổi bạc và đóng dấu tên các chủ lò bạc, xem như đã kiểm tra.

Nguyễn Anh Huy (trích "700 năm Thuận Hoá - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế")