Đông Tác

Blog

Trang nhà > Bạn đọc > Đề xuất > Luận bàn về tri thức (1)

Luận bàn về tri thức (1)

Thứ Năm 8, Tháng Ba 2007

Vũ trụ và Tri thức là những khái niệm không diễn tả được bằng ngôn ngữ, nếu nói ra bằng ngôn ngữ, chỉ là mô tả cái bóng của nó, chứ không phải bản thân nó. Vì vậy có câu : "Người biết không nói. Người nói không biết." (Tri giả bất ngôn. Ngôn giả bất tri. - Lão Tử).

Định nghĩa

Khi luận bàn về một sự vật hay hiện tượng, trước hết chúng ta phải xác định một định nghĩa cho nó. Vậy Tri thức là gì ?

"Tri thức" có vai trò như là một từ của một ngôn ngữ, đồng thời, "Tri thức" cũng có vai trò là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ.

Ý nghĩa ngôn từ

Dưới phương diện là một từ của một ngôn ngữ, "Tri thức" có thể được hiểu một cách rất dễ dàng bằng giở một cuốn từ điển ngôn ngữ bất kỳ ra, và đọc mục từ "Tri thức" ở trong đó. Ví dụ trong từ điển tiếng Anh Oxford, Tri thức (Knowledge) được giải thích là : "Tri thức là những gì mà bạn đã học. Tri thức tổng quát (General Knowledge) là hiểu biết về nhiều thứ khác nhau". Nói tóm lại, "Tri thức" nhìn dưới góc độ ngôn ngữ học là một khái niệm rõ ràng và dễ hiểu.

Ý nghĩa triết học

Dưới phương diện là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, Tri thức có ý nghĩa Triết học của nó. [1]

Để có thể xem xét về ý nghĩa Triết học của Tri thức, chúng ta phải xem xét đến nguồn gốc và sự phát sinh ra các sự vật và hiện tượng. Hiện nay các nhà khoa học đều thừa nhận là có một sự nhất trí hoàn toàn giữa các trường phái Triết học Đông phương cổ đại và các nhà vật lý học hiện đại về nguồn gốc, cấu tạo và các quá trình hoạt động của vũ trụ [2].

Theo kinh Vệ đà của Ấn độ giáo, vũ trụ được phát sinh ra từ một thể gọi là Cũnyatâ. Theo Vô song nguyên lý của Phục Hy thì nguồn gốc của vũ trụ là Thái cực. Trong Đạo đức kinh, Lão tử khẳng định nguồn gốc của vũ trụ là cái Vô. Kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo cho rằng vũ trụ xuất phát từ Không. Triết lý Nhật bản phát biểu rằng vũ trụ bắt nguồn từ Kù. Tất cả các khái niệm trên dịch nghĩa về phương diện Triết học là "Vũ trụ tinh khí tiền phân cực", và được mô tả như một thể thống nhất, trong đó không có sự khác biệt về chiều của không-thời gian, không có các khái niệm nhị nguyên như nhanh-chậm, nóng-lạnh, xa-gần, trên-dưới... Chỉ khi thể thống nhất này phân cực tạo thành vũ trụ, thì những khái niệm nhị nguyên này mới hình thành.

Theo vật lý học hiện đại, vũ trụ được hình thành từ một vụ nổ lớn (big bang) của một thể thống nhất, trong đó không-thời gian và các loại vật chất là một sự đồng nhất hoàn toàn, không có các khái niệm khác biệt theo bất kỳ một hệ quy chiếu hay một phép đo cho bất kỳ một đại lượng nào.

Bất khả tri hay bất khả biểu?

Nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ là sự bao trùm lên tất cả, còn ngôn ngữ là quy ước của con người, do đó, việc nhận thức và giải thích vũ trụ, nguồn gốc và các tiến trình của nó bằng ngôn ngữ chặt chẽ là điều không thực hiện được, mà con người phải nắm bắt chúng bằng trực giác. Các nhà tư tưởng lớn như các triết gia thời cổ đại và của Ấn độ giáo, Phật giáo, Lão giáo, Thần đạo... và những nhà vật lý hiện đại như Werner Heisenberg, Niels Bohr, Paul Dirac, Albert Einstein, Stephen Hawkins... đều khẳng định tính hạn chế của ngôn ngữ trong việc biểu diễn Nguồn gốc và các tiến trình của vũ trụ và đề ra các giải pháp khác nhau cho việc biểu diễn chúng trong các công trình nghiên cứu của mình. Ấn độ giáo biểu diễn những khái niệm này thông qua hệ thống các huyền thoại, tranh tượng và các vũ điệu tôn giáo của mình. Vô song nguyên lý của Phục Hy biểu diễn chúng thông qua đồ hình Thái cực và Âm-Dương bát quái [3]. Đạo đức kinh của Lão tử và kinh Hoa nghiêm của Phật giáo chọn lối dùng ngôn ngữ trừu tượng và cô đọng để truyền thụ ý niệm về nguồn gốc và mối tương quan của vạn vật tới người đọc. Phật giáo Thiền tông của Trung quốc, về sau có ảnh hưởng rộng lớn tới Nhật bản lại chủ trương nhận thức tức thời bằng ngộ. Các trường phái vật lý hiện đại lại biểu diễn chúng bằng các biểu đồ không-thời gian và các phương trình toán học phức tạp trong thế giới vật lý thiên văn cũng như vật lý hạ nguyên tử (subatomic). Điều đáng kinh ngạc là hiện nay người ta đã chứng minh được là có sự đồng nhất trong việc biểu diễn các tiến trình của thế giới giữa các hình thức biểu hiện khác nhau : tượng thần Shiva, vũ điệu của thần Vishnu trong Ấn độ giáo, sự biến dịch của Thái cực, Bát quái, sự ẩn dụ về mặt ngôn ngữ trong Đạo đức kinh, kinh Hoa nghiêm, sự chứng ngộ trong một trạng thái đồng nhất về không thời gian của Thiền... và các học thuyết, biểu đồ, phương trình của vật lý thiên văn và vật lý hạt nhân hiện đại.

Chúng ta có thể thấy rằng, bởi vì Tri thức (hiểu theo nghĩa Triết học) là sự biểu diễn cho một khái niệm không thể kiến giải được bằng ngôn ngữ thông thường, nên bản thân Tri thức cũng không thể kiến giải được bằng ngôn ngữ thông thường. Đối với không gian vô tận, chúng ta không trực tiếp nhận biết được nó, nhưng chúng ta nhận biết về sự tồn tại của không gian bởi những vật chứa đựng trong nó, và qua các hệ quy chiếu tương đối mà chúng ta quy ước nên để cảm nhận được một phần các chiều của nó. Như vậy, để cảm nhận về Tri thức, các học giả cũng dựng nên những hệ trục quy chiếu tương đối, để kiến giải những gì biểu hiện ra thành sự vật có thể quan sát và phân tích được của Tri thức.

Các hoạt động nghiên cứu về tri thức

Hiện nay có nhiều học thuyết biểu diễn tri thức khác nhau, nhưng có thể chia "trục quy chiếu" tri thức ra làm hai loại chính : Loại thứ nhất, nhìn nhận vai trò của tri thức trong các tiến trình hoạt động, và loại thứ hai là phân tích tri thức dựa trên các thuộc tính được quy nạp từ các sự vật tạm gọi là vật thể có tri thức. Cả hai loại trục này đều có những hạn chế của nó, bởi vì nó chỉ là hình chiếu của Tri thức, chứ không phải là bản thân Tri thức.

Thuyết phân tích vai trò của tri thức trong hoạt động

Loại thứ nhất (một vài luận điểm về cách xây dựng học thuyết này được trích từ một tác giả khác) xem xét các tiến trình dưới góc độ bao gồm ba thành phần có liên hệ với nhau như sau:

1) Tri thức.

2) Hoạt động.

3) Sản phẩm tạo ra bởi hoạt động.

Trong đó tri thức đóng vai trò chỉ dẫn, hoạt động là sự thực hiện, sản phẩm tạo ra không phải là một cái bất kỳ mà là vật chất với một thứ tự mới được xác định rõ ràng bởi tri thức và thứ tự ban đầu của vật chất (sản phẩm tinh thần là thể hiện của một thứ tự mới trong bộ não). Sau đó, những học giả của trường phái này đi tới một phép quy nạp, thay ba thành phần nói trên bằng ba thành phần mang tính tổng quát hơn:

- [chỉ dẫn; sự thực hiện; kết quả được quy định trong chỉ dẫn]

Sau đó, họ chỉ ra rằng hệ thống tiến trình nêu trên đó không chỉ tồn tại trong con người, mà còn tồn tại trong các hệ thống khác, ví dụ:

- [gen; sự trao đổi chất; protein]

Tại đây, chúng ta thấy ngay điểm sai của lập luận. Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, sinh vật sử dụng thông tin về cấu tạo của gen để thực hiện quá trình trao đổi chất, nhằm hình thành sinh vật, sống và phát triển. Như vậy, gen đóng vai trò là nơi chứa thông tin cần cho quá trình sống của sinh vật, chứ không phải là vật thể có Tri thức, tương tự như quyển sách dạy nấu ăn đóng vai trò là nơi chứa thông tin mà người nấu bếp căn cứ vào đó để nấu thành món ăn, chứ quyển sách không phải là Tri thức, cũng không phải là vật thể có Tri thức.

Tiếp đó, họ tiếp tục quy nạp để mở rộng định nghĩa của Tri thức thành "Tri thức là những cấu trúc vật chất xác định có khả năng đóng vai trò chỉ dẫn trong một hệ tiến trình". Dựa trên các kiến thức về sinh học phân tử, họ cũng khẳng định là Tri thức không nhất thiết phải nằm trong bộ não con người, mà nó hình thành từ khi có sự sống, và gen chính là cấu trúc Tri thức đầu tiên. Điều này sai. Xét định nghĩa "Tri thức là những cấu trúc vật chất xác định có khả năng đóng vai trò chỉ dẫn trong một hệ tiến trình" áp dụng cho một hệ thống sau: một computer được nạp một chương trình tự động nhận hai số vào từ bàn phím, và in tổng của chúng ra màn hình. Như vậy chương trình tự động hóa này đóng vai trò chỉ dẫn cho việc chấp nhận việc nhập số, và sản phẩm là tổng của hai số đó được in ra màn hình. Tuy nhiên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy là trong cái hệ thống này chả có cái gì gọi là Tri thức hay Trí tuệ cả, mà chỉ là một tập hợp các bit 0 và 1 tạo thành chương trình đọc bàn phím, cộng và in ra màn hình. Trong trường hợp này, đây chỉ là một cơ chế tự động hóa cứng nhắc, mù quáng, chỉ thực hiện một điều được ra lệnh cho nó. Việc tự động hóa cứng nhắc, mù quáng tự thân nó đã phản lại ý nghĩa về hoạt động Tri thức. Chúng ta có thể chỉ ra hàng tỉ hệ thống khác như thế, ví dụ dây cót đồng hồ chỉ dẫn việc chạy cho kim đồng hồ, nhưng chả ai bảo cái dây cót đồng hồ là Tri thức cả.

Cách xây dựng hệ quy chiếu để cảm nhận về tri thức như trên có những hạn chế rất cơ bản.

Thứ nhất là từ cách đặt vấn đề. Để xác định một định nghĩa cho Tri thức, các học giả thuộc trường phái này đã xem xét một tiến trình trong đó có sự biểu hiện của Tri thức ra thành một hình thức cụ thể có thể cảm nhận được : đó là sự vật đóng vai trò Chỉ dẫn. Như vậy vai trò Chỉ dẫn chỉ là một khía cạnh cụ thể được biểu hiện ra của Tri thức trong một loại tiến trình cụ thể. Nhưng ở đây, các học giả của trường phái này hoàn toàn không thể biện luận một cách chặt chẽ được rằng ngoài việc thể hiện ra dưới vai trò Chỉ dẫn, ai dám chắc là Tri thức không thể hiện ra thành vai trò khác, dưới những khía cạnh cụ thể khác, trong các loại tiến trình khác. Họ cũng không thể chứng minh được rằng ngoài Tri thức ra, có vật thể nào khác cũng có khả năng đóng vai trò Chỉ dẫn hay không. Việc quy nạp hóa từ việc dẫn ra một hoặc vài tiến trình trong vô số các tiến trình và loại tiến trình khác nhau trong vũ trụ, để rồi kết luận là Tri thức là một cái gì đó đóng vai trò Chỉ dẫn chính là sai lầm được gọi là Quy nạp hóa vội vã, đã được các triết gia cổ Hy lạp chỉ ra từ 5000 năm trước công nguyên. Điều này tương tự với việc để tìm ra định nghĩa cho loài động vật bốn chân, chúng ta xem xét một thể hiện cụ thể của loài động vật bốn chân là con bò, sau khi xem xét độ hai chục con bò thì đi tới kết luận là tất cả động vật bốn chân đều có sừng.

Thứ hai, việc xem xét vai trò của Tri thức trong một tiến trình, từ đó chỉ ra định nghĩa tri thức là hoàn toàn không thỏa đáng. Chúng ta không thể dựa vào một vai trò của một vật trong một tiến trình để định nghĩa về danh tính của nó. Ví dụ, nếu chúng ta định nghĩa con bò dựa vào vai trò của nó, như sau : "Bò là một loại động vật bốn chân, có vai trò đi cày, kéo xe, cho sữa, làm thịt". Từ định nghĩa này suy ra những con động vật bốn chân không có các khả năng kể trên thì không phải là con bò. Điều này sai, vì có những con bò ngu dốt và bệnh hoạn đến mức không thể đi cày, kéo xe cũng như cho sữa, lại mắc bệnh điên nên không thể làm thịt. Nhưng chẳng vì thế mà nó không phải là con bò. Hoặc các bộ lạc du mục người Mông cổ nuôi ngựa cũng có dùng để đi cày, kéo xe, cho sữa và làm thịt, nhưng không thể căn cứ vào vai trò đó để nói rằng con ngựa là con bò.

Thứ ba, chỉ xét riêng việc xem xét về cái gọi là sự Chỉ dẫn trong một tiến trình bao gồm

- [chỉ dẫn; sự thực hiện; kết quả được quy định trong chỉ dẫn]

có nghĩa là các học giả của trường phái này đã tách rời cái biểu hiện thành Chỉ dẫn của Tri thức ra khỏi môi trường tự nhiên của nó, nhét nó vào trong một cái lồng bao gồm ba thành phần để quan sát. Điều này tương tự như việc để nghiên cứu về vận tốc của loài bò, người ta đem nhốt con bò vào một cái chuồng hẹp, không cho cựa quậy, rồi đi tới kết luận là con bò không biết chạy.

Qua những luận điểm đã trình bày, chúng ta thấy rằng lý thuyết này không thể áp dụng để nghiên cứu Tri thức không chỉ trong phạm vi tổng thể với ý nghĩa Triết học đầy đủ của nó, mà còn cả trong một phạm vi tương đối hẹp, với không-thời gian tuyến tính. Nói tóm lại, học thuyết này được ngoại suy một cách quá vội vã từ quan sát thực nghiệm, hoàn toàn không có giá trị học thuật, và không ứng dụng được vào một ngành khoa học tự nhiên nào.

Thuyết phân tích tri thức dựa vào thuộc tính

Loại quy chiếu thứ hai xuất phát từ một phương pháp luận khác. Những học giả của lý thuyết này thừa nhận sự hạn chế của ngôn ngữ tự nhiên trong việc biểu diễn Tri thức với ý nghĩa Triết học của nó. Do đó để có thể diễn tả Tri thức bằng ngôn ngữ và biểu diễn các luận điểm về Tri thức, họ sử dụng một hệ quy chiếu dựa trên một vài tiền đề quy ước [4]. Như vậy, hệ quy chiếu này cũng không biểu diễn được Tri thức với ý nghĩa Triết học Tổng thể của nó, mà chỉ mang tính mô hình biểu diễn, để tiện cho việc kiến giải Tri thức, tương tự như tấm hải đồ đi biển không phải chính là biển.

Dựa trên tiền đề "Con người là một sinh vật có Tri thức" và "Những động vật không có khả năng tư duy trừu tượng thì không có Tri thức", những học giả của trường phái này tìm kiếm tất cả các thuộc tính (attribute) của con người, mà những động vật không có Tri thức khác không có. Sau đó, họ sẽ tìm trong thiên nhiên và vũ trụ những vật có mang những thuộc tính này, và công nhận chúng là vật thể có Tri thức. Xuất phát từ loài người, trước tiên, các nhà khoa học nhận thấy rằng một con người có Tri thức khi rơi vào một hoàn cảnh mới, hoàn toàn chưa gặp trước đó, không được ai chỉ dẫn, ra lệnh, một người có khả năng suy nghĩ luôn có khả năng tìm ra giải pháp để hoạt động và giải quyết công việc trong hoàn cảnh này [5]. Một ví dụ nôm na (có nghĩa là ví dụ này chỉ có tác dụng minh họa cho các độc giả không có chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu Tri thức) về khả năng giải quyết một trường hợp chưa được dự liệu trước, không được dạy trước, cũng không có chỉ dẫn hay lệnh trực tiếp: Vào thời chưa có các dụng cụ quan sát quang học, một anh chàng muốn nhìn thấy rõ một vật cách xa anh ta vài km. Rõ ràng là trước thời đó chưa có ai nói là phải làm thế nào để nhìn xa như thế, chả có sách vở nào viết là phải làm thế nào trong trường hợp này, và chả có ai hay có vật nào có thể chỉ dẫn cho anh ta về giải pháp. Như vậy, anh chàng này phải căn cứ vào các hiểu biết của mình về toán học, quang học, về cơ khí và nấu thủy tinh ... qua một quá trình suy nghĩ, nghĩa là qua một tiến trình vận động của Tri thức, để chế tạo ra cái ống nhòm. Hiển nhiên là anh ta có tìm cả đời trong kho kiến thức của nhân loại đã có trước đó cũng không tìm ra giải pháp. Điều này nghĩa là anh ta đã tìm ra giải pháp mới mà không cần sự can thiệp trực tiếp từ bên ngoài, và không có nghĩa là chỉ lưu giữ thông tin một cách đơn giản, và đem ra sử dụng khi cần thiết.

Theo các nhà khoa học, các thuộc tính cơ bản đem lại khả năng tự suy nghĩ và hành động của các vật thể có Tri thức là:

- Vật thể có Tri thức thu nhận và xử lý thông tin.

- Không thể đoán trước được hành động của vật thể có Tri thức.

- Vật thể có Tri thức thì có tính tự do ý chí (Autonomy - tính tự chủ).

Khi các hoạt động Tri thức được khảo sát ở mức chi tiết hơn, các nhà nghiên cứu Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence) [6] diễn tả các khái niệm trên chi tiết hơn như sau:

- Vật thể có Tri thức có tính tương tác (Interactive) : nghĩa là vật thể có Tri thức có thể trao đổi Thông tin với môi trường xung quanh và với các vật thể khác.

- Vật thể có Tri thức có tính phản xạ (Reactive) : nghĩa là vật thể có Tri thức căn cứ vào các Thông tin thu nhận được, để có những phản xạ với môi trường xung quanh, hoặc với các vật thể khác.

- Vật thể có Tri thức có tính hành động tích cực (Proactive) : nghĩa là các vật thể có Tri thức có thể tự mình phát sinh ra các hành động để thực hiện một công việc hay một mục đích nào đó.

- Vật thể có Tri thức có khả năng hoạt động trong môi trường thông tin không đầy đủ : nghĩa là một vật thể có Tri thức không cần phải có những mệnh lệnh hay chỉ dẫn trực tiếp một cách hoàn toàn đầy đủ, mà vẫn có thể hoàn thành những công việc hoặc mục đích nhất định trong môi trường hoạt động của nó.

- Vật thể có Tri thức có tự do ý chí (Autonomy)

Dễ thấy rằng tập hợp được bổ sung thêm của các nhà nghiên cứu Trí tuệ nhân tạo chỉ là sự chi tiết hóa các thuộc tính đã được các nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên khác nêu ra ở trên.

Sau khi đã có tập hợp các thuộc tính của vật thể có Tri thức, các nhà khoa học tự nhiên quan sát những vật thể khác trong tự nhiên, và đã chỉ ra được rằng Tri thức không chỉ tồn tại trong một vật thể duy nhất là con người.

Bản chất tư tưởng của học thuyết này là các học giả của những trường phái này không nghiên cứu trực tiếp Tri thức, mà chỉ nghiên cứu những vật thể có Tri thức, là các thể hiện ra thành vật chất của Tri thức. Dễ thấy là cũng như trong trường hợp của học thuyết thứ nhất, học thuyết thứ hai này cũng không mô tả được Tri thức một cách đầy đủ với ý nghĩa Triết học của nó. Do đó nó hoàn toàn không thể áp dụng được trong phạm vi tổng thể.

Vậy đối với các phạm vi không-thời gian giới hạn và các khía cạnh cụ thể thì sao? Phương pháp này chứa đựng một sự nhất quán trong bản thân nó, khi nó được đem áp dụng cho các ngành khoa học tự nhiên khác nhau. Ví dụ người ta không thể khảo sát trực tiếp không-thời gian vô tận, mà người ta chỉ tìm hiểu những vật chứa trong không-thời gian, và khảo sát một phần của không-thời gian bằng cách quy ước ra các hệ trục quy chiếu của nó. Trong vật lý hạt nhân, người ta cũng không thể trực tiếp quan sát các hạt và các tiến trình của nó, mà chỉ có thể quan sát các vết do các hạt đó tạo ra trên màn chắn sóng của máy gia tốc và lò phản ứng hạt nhân, và lập phương trình cho các vết đó. Tương tự, trong các hệ thống thiết kế hướng đối tượng của ngành khoa học máy tính (Computer Science), những thành phần cơ bản thực sự tham gia vào hoạt động của hệ thống không phải là các đối tượng (objects), mà là các thể hiện của các lớp đối tượng (instances of object classes).

Để minh họa cho một vật thể có Tri thức, các nhà vật lý thiên văn dẫn ra hiện tượng lỗ đen (Black hole) trong vũ trụ. Đây là hiện tượng suy sụp hấp dẫn (Gravitational Collapse) của một thiên thể. Trong quá trình phát triển của một thiên thể, sẽ có giai đoạn trong đó nó bị co rút lại vì lực hút lẫn nhau của các hạt cấu tạo nên nó. Khi khoảng cách giữa các hạt nhỏ dần thì sức hút giữa chúng tăng nhanh, quá trình sụp đổ càng gia tốc, và khi thiên thể có tỉ trọng vào khoảng gấp đôi tỉ trọng của mặt trời, thì tiến trình sụp đổ hấp dẫn tạo thành lỗ đen diễn ra. Về mặt lý thuyết, thiên thể sẽ co rút không ngừng về mặt kích thước, và tăng lên không ngừng về mặt tỉ trọng, do đó lỗ đen cuối cùng sẽ co rút thành một điểm có tỉ trọng vô cùng lớn [7]. Trên thực tế, theo thuyết tương đối của Einstein, các vật có trọng lượng uốn cong không-thời gian xung quanh nó, trọng lượng của vật thể càng lớn, thì độ cong của không-thời gian quanh nó càng cao. Do vậy, không-thời gian không có tính đồng nhất tại mọi điểm trong vũ trụ. Vì tính cong của không-thời gian quanh lỗ đen cực cao, và không ngừng tăng lên theo quá trình suy sụp hấp dẫn, nên đứng từ một không-thời gian khác có độ cong kém hơn, nghĩa là từ bất kỳ một điểm nào bên ngoài lỗ đen, ta sẽ thấy khoảng thời gian để lỗ đen hoàn tất việc suy sụp hấp dẫn là vô tận. Chính những đặc điểm nêu trên đã mang lại cho lỗ đen những thuộc tính của một vật thể có Tri thức. Thứ nhất, lỗ đen có lực hấp dẫn vô cùng lớn, mọi vật bị hút vào đó đều bị giữ lại, đến mức ánh sáng cũng không thoát ra khỏi lỗ đen, có nghĩa là nó thu nhận thông tin, và tất cả những gì rơi vào vòng ảnh hưởng của nó, toàn bộ ánh sáng, vật chất, không-thời gian ... đều bị biến đổi, có nghĩa là nó xử lý thông tin. Bởi vì quá trình suy sụp của nó là Vô hạn, do đó sẽ không ai biết được là Sau Đó nó sẽ làm gì, nghĩa là không thể đoán trước được hành động của nó. Do không thể đoán trước được hành động của nó, và khi cái Sau Đó (tại thời điểm kết thúc của thời gian Vô hạn) xảy tới, về mặt lý thuyết nó có thể giở bất kỳ trò gì nó muốn, nên nó có tính tự do ý chí.

Các nhà vật lý hạt nhân cũng có ứng cử viên của mình. Có một giai đoạn, người ta quan niệm rằng tất cả các chất được tạo nên từ các nguyên tử, các nguyên tử này được tạo ra từ ba hạt cơ bản không thể phân chia được là electron có điện tích âm, proton có điện tích dương và neutron không mang điện tích. Nhưng sau đó, các nhà vật lý hạt nhân nhận ra rằng do các hạt này có những tính chất khác nhau, nên chúng phải có những cấu tạo khác nhau, và họ tiếp tục tìm ra những hạt "cơ bản" cấu thành những hạt nói trên. Kết quả là họ tìm ra khoảng 300 hạt "cơ bản" khác nhau, và chúng hoàn toàn không phải là hạt cơ bản không thể phân chia được, vì chúng vẫn mang những tính chất điện từ và sóng khác nhau. Ngành nghiên cứu các hạt này và các tiến trình của nó là ngành vật lý hạ nguyên tử (subatomic physics). Có thời các nhà vật lý thuộc ngành này đã giả định là thế giới vật chất đều tạo ra từ một loại hạt cơ bản nhất không thể phân chia được, gọi là hạt quark, nhưng sau đó, do tính chất spin sóng khác nhau của các hạt quark, các nhà vật lý đành phải thừa nhận là các hạt tạo bởi ba loại quark và ba loại antiquark (đối hạt của hạt quark trong thế giới phản vật chất), kết hợp với các tính chất về màu (Colour - Đây không phải là màu theo nghĩa đen) và tính chầt về vị (Flavour - Đây không phải là vị theo nghĩa đen), và như vậy là có 12 loại hạt quark và 12 loại antiquark, cuối cùng thì vẫn không phải là các hạt cơ bản. Nhưng ở đây, chúng ta không bàn về mô hình vật lý nguyên tử, mà chỉ bàn về hạt quark như một vật thể có thể coi là có Tri thức. Thứ nhất, hạt quark tương tác (interactive) với các hạt quark khác, và các loại hạt khác trong môi trường của nó. Thứ hai, hạt quark phản ứng (reactive) với các hạt khác trong môi trường của nó. Thứ ba, hạt quark tự nó có những hoạt động để thay đổi tính chất sóng hoặc biến đổi tính chất hạt (proactive). Tiến trình phản ứng, diễn biến và kết quả các phản ứng và hoạt động của các hạt trong thế giới hạ nguyên tử là không xác định, và không đồng nhất, dù xác định bằng thực nghiệm hay các phương trình phản ứng. Do đó, thứ tư, hạt quark có khả năng hoạt động trong một môi trường mà bản thân nó không bao giờ có thể thu thập được đủ về các khả năng có thể xảy ra, nghĩa là không đầy đủ về mặt thông tin. Thứ năm, tiến trình và các kết quả của hành động của hạt quark là không xác định, nghĩa là nó có tính không phụ thuộc toàn bộ vào các quy định của các điều kiện bên ngoài, không đoán trước được hành động của nó, nghĩa là nó có tự do ý chí (autonomy). Vậy hạt quark có thể coi là có Tri thức. Nhận định này cũng có thể áp dụng cho các meson, hadron, sigma... và các hạt hạ nguyên tử khác.

Phê phán

Có một vài người nhận định rằng những hình mẫu về lỗ đen và hạt quark chỉ là ngụy biện, vì không có tiến trình tinh thần nào diễn ra trong đó. Nhưng không có học thuyết nào ràng buộc là Tri thức phải gắn với hoạt động tinh thần, vốn là điều chỉ tồn tại ở sinh vật sống. Thứ hai, khái niệm về vật chất và tinh thần là một khái niệm hình thành từ triết học cổ Hy lạp, về sau được cụ thể hóa bởi Decartes, nhưng đã bị vật lý hiện đại và Triết học Đông phương phủ định, vì nguồn gốc của vũ trụ là một Thể thống nhất, do đó vật chất hay tinh thần chỉ là các thể hiện ra thành dạng cụ thể (và các dạng cụ thể này bị hạn chế bởi quy ước) của một loại duy nhất. Hữu sinh và vô sinh cũng chỉ là quy ước của con người về mặt ngôn ngữ. Do đó, không thể khẳng định rằng Tri thức không tồn tại trong các vật thể và các tiến trình vô cơ (rút cục thì vô cơ hay hữu cơ cũng là quy ước của con người, và tất nhiên là nó không tuyệt đối đúng, nghĩa là xét trong các hệ khái niệm của các thế giới khác, trong các thiên hà khác, với quy ước của các vật thể có tri thức khác, thì cách phân chia hữu cơ hay vô cơ sẽ không còn đúng nữa). Hơn nữa, do tính chất không đồng nhất của không-thời gian, vật chất (theo nghĩa tương đối) của môi trường này có thể lại là tinh thần (theo nghĩa tương đối) của môi trường khác, và trong một môi trường nào đó, chắc chắn sẽ tồn tại các vật thể cấu tạo từ những cái mà con người coi là tinh thần. Vì vậy, theo học thuyết đã nêu, các lỗ đen và các hạt hạ nguyên tử hoàn toàn có thể coi như các vật thể có Tri thức.

Điều đáng kinh ngạc là các nhà sinh vật học, trong phạm vi quan sát của mình, không đưa ra được một loại sinh vật nào có đầy đủ các thuộc tính của vật thể có Tri thức, trừ con người. Nhưng điều này không có nghĩa là ngoài con người ra, không còn sinh vật có tri thức nào khác. Có khoảng 50 tỉ ngôi sao trong thiên hà chúng ta đang sống. Chòm sao ngoài thiên hà gần với chúng ta nhất là chòm sao Alpha thuộc thiên hà Nhân mã, cách trái đất hơn 4 năm ánh sáng, và cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết gì về chòm sao này cả, chưa kể đến các chòm sao khác trong thiên hà. Ngoài ra, có vô số thiên hà trong toàn thể vũ trụ vô tận. Vì vậy chúng ta chả có lý do gì để tuyên bố trái đất là nơi duy nhất có sự sống, và cũng không có lý do gì để tuyên bố rằng sinh vật có Tri thức duy nhất là con người.

Trí tuệ nhân tạo và hệ chuyên gia

Ngay từ khi giáo sư John Mc. Carthy đặt những nền móng đầu tiên cho ngành Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence), những nhà khoa học về Trí tuệ nhân tạo đã xác định mục tiêu của ngành là nghiên cứu về các đặc điểm của Trí tuệ, tìm cách biểu diễn Tri thức và mô phỏng lại Tri thức bằng những công cụ của con người. Máy tính, với chức năng là lưu trữ và xử lý thông tin, đã hiển nhiên trở thành đối tượng nghiên cứu của ngành Trí tuệ nhân tạo, để sử dụng như một công cụ mô phỏng lại Trí tuệ. Tuy nhiên, kể từ thời chiếc máy tính lớn (mainframe computer) đầu tiên ra đời cho đến kỷ nguyên của máy tính hiện nay (micro computer) [8], máy tính vẫn hoạt động theo mẫu máy Turing, nghĩa là về mặt nguyên tắc, nó chỉ làm những gì mà người ta ra lệnh cho nó, và trong những trường hợp mà lập trình viên không dự tính được trước, máy tính thường chỉ có khả năng báo lỗi, còn nếu không báo lỗi thì sẽ hoạt động lung tung hoặc treo máy. Vậy mà mục tiêu của ngành Trí tuệ nhân tạo là mô phỏng Trí tuệ, nghĩa là phải làm sao đó để máy tính có khả năng tư duy. Khi nó rơi vào trường hợp mà lập trình viên không dự tính trước, nó phải có khả năng tìm ra giải pháp để giải quyết tình huống. Trước đây, việc sử dụng máy tính với các bit 0 và 1 đồng nghĩa với việc sử dụng đại số boolean với các toán tử logic AND, OR, XOR, NOT, nghĩa là các phép tính logic mệnh đề chỉ xác định khi các toán hạng đã xác định, nghĩa là các điều kiện đã được biết. Vì vậy, ở bước khởi đầu của mình, các nhà nghiên cứu Trí tuệ nhân tạo đã bị ám ảnh bởi định kiến là đối với máy tính, họ chỉ có thể làm việc với các điều kiện có thể dự định trước. Định kiến này đã dẫn họ đi tới kết luận là đã vậy, thì phải tìm cách mô tả thật nhiều điều kiện, càng nhiều càng tốt, như vậy thì máy tính sẽ có khả năng phản ứng với rất nhiều trường hợp xảy ra trong thực tế. Khi dữ liệu được lưu trữ trong hệ thống đủ nhiều đến một mức nào đó, thì máy tính gần như giả lập được là nó có Trí tuệ, vì nó sẽ xử lý được đa số các trường hợp xảy ra trong thực tế, còn những trường hợp mà nó không xử lý được sẽ có xác suất xảy ra quá nhỏ, đến mức là gần như không bao giờ xảy ra. Các Hệ chuyên gia chạy trên máy tính vào khoảng thập niên 70 của thế kỷ 20 là một thể hiện điển hình của quan điểm này, tuy nhiên trong thực tế, dữ liệu nạp vào các Hệ chuyên gia chưa bao giờ đủ lớn để máy tính đạt tới mức độ đã nêu trên. Do tính hạn chế về tốc độ tính toán và khả năng lưu trữ của các máy tính, nên khi số lượng dữ liệu nạp vào khá lớn, thì nó không đáp ứng được về nhu cầu về xử lý thời gian thực (real-time processing). Ví dụ, nếu nạp một dữ liệu về y tế, phòng chữa bệnh vào một Hệ chuyên gia y tế chạy trên máy tính đến mức đủ nhiều để giả lập một bác sĩ, thì khi đưa một yêu cầu chẩn bệnh vào, nó sẽ chạy mất vài năm, và lúc đó thì người bệnh đã về nơi chín suối. Tiếp tục đi trên vết xe đổ này, các chuyên gia về Trí tuệ nhân tạo của thời kỳ đó cho rằng nếu có một máy tính đủ mạnh, thì có thể nạp và xử lý cực nhiều dữ liệu mà vẫn không bị hạn chế bởi yêu cầu xử lý thời gian thực. Chính từ quan điểm này, mà ý tưởng về mạng neural (neural network) và máy tính quang tử (photon computer) ra đời, nghĩa là đây là những hình mẫu viễn tưởng cho những siêu máy tính cực mạnh, có thể lưu trữ và xử lý một lượng khổng lồ thông tin, để có thể đưa ra giải pháp trong một phạm vi thời gian hợp lý cho bất kỳ một trường hợp nào có xác suất xảy ra khá lớn. Tuy nhiên, giải pháp này có những sai lầm căn bản, cả về tính tư tưởng lẫn tính khả thi. Xét về tính khả thi, số lượng thông tin cụ thể để nạp vào máy tính làm cho nó có thể giả lập được Trí tuệ (bằng cách xét từng trường hợp điều kiện) trong một lĩnh vực nhất định sẽ là cực lớn, đến mức toàn thể loài người dành toàn bộ cuộc đời mình ngồi gõ máy tính cũng chưa chắc đã nhập hết được những thông tin cần thiết vào máy tính để tạo ra một hệ chuyên gia có thể hoạt động độc lập được mà không cần chỉ dẫn của con người. Xét về mặt tư tưởng, số các trường hợp có thể xảy ra trong thực tế là vô tận, còn số các thông tin nhập vào máy tính và số trường hợp được các lập trình viên dự tính trước dù là lớn bao nhiêu đi nữa cũng vẫn là hữu hạn, do đó xác suất của việc một trường hợp bất kỳ nào đó xảy ra bao giờ cũng là rất lớn, nên sẽ không bao giờ có trường hợp nào mà máy tính không giải quyết được lại có xác suất xảy ra nhỏ. Tóm lại, giải pháp nhập thật nhiều thông tin vào máy tính và dự liệu trước thật nhiều trường hợp để giả lập trí tuệ là một giải pháp bế tắc. Ngay cả sự ra đời của logic mờ (fuzzy logic) để bổ sung cho những thiếu sót của boolean logic trong giải pháp này cũng không đem lại những giải quyết căn bản.

Biểu diễn tri thức và Agent học

Đến đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, một số nhà nghiên cứu Trí tuệ nhân tạo và Khoa học về máy tính như Shoham, Rao A.S., Georgeff M., Cohen P.R. và Levesque,H.J... chỉ ra rằng khả năng tìm ra giải pháp trong những trường hợp chưa được dạy trước, chưa gặp trước và chưa dự liệu trước của con người (hay của các vật thể có trí tuệ) không phụ thuộc chặt chẽ vào lượng thông tin con người biết nhiều hay ít, mà phụ thuộc vào khả năng sáng tạo của con người, tức là phụ thuộc vào các tiến trình của hoạt động tri thức, và phụ thuộc vào cách con người biểu diễn các thông tin đã biết như thế nào. Từ đó, một lĩnh vực hẹp trong ngành Trí tuệ nhân tạo ra đời : đó là lĩnh vực Biểu diễn Tri thức (Knowledge Presentation). Các nhà khoa học nghiên cứu việc biểu diễn Tri thức tìm cách mô hình hóa thông tin, các mối liên hệ giữa các thông tin, các tiến trình xử lý thông tin và các quan hệ giữa thông tin và các tiến trình xử lý thông tin. Một loạt các ngành logic mới ra đời để phục vụ cho việc toán học hóa các mô hình Tri thức như first-order logic, omni logic (logic không gian), temporal logic (logic thời gian) ... [9]. Các lý thuyết về omni logic và temporal logic đã được phát triển, để tạo nên một ngành khoa học mới, đứng ngay trên ranh giới của ngành Trí tuệ nhân tạo và ngành Khoa học về máy tính : Đó là ngành Agent học. (Agent trong ngành khoa học này không có từ tương đương trong tiếng Việt). Agent được mô tả như một thực thể trên máy tính và các thiết bị điện tử thỏa mãn các điều kiện sau:

- Agent có tính tương tác (Interactive) : Agent có thể tương tác với các Agent khác và với môi trường mà nó hoạt động trong đó (nghĩa là môi trường máy điện tử, không nhất thiết chỉ có computer, mà còn có thể là thiết bị điện tử có gắn micro processor, robot...)

- Agent có tính phản xạ (Reactive): Agent có thể phản ứng lại tác động của các Agent khác và phản ứng lại với các thay đổi của môi trường.

- Agent có tính hành động tích cực (Proactive) : Agent có thể tự mình phát sinh ra các hành động để thực hiện một công việc hay một mục đích nào đó.

- Agent có khả năng hoạt động trong môi trường thông tin không đầy đủ : Môi trường của Agent ở đây là máy điện tử, như vậy Agent có thể hoạt động trong môi trường này khi có các trường hợp mà lập trình viên chưa dự liệu trước xảy ra, hoặc khi xảy ra các trường hợp có các thông tin ở bên ngoài được bộ cảm biến (sensor) của máy nhận biết được, và loại điều kiện này Agent chưa được lập trình để xử lý. Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay, khả năng này của Agent mới chỉ được xác định qua mô hình toán học, còn việc cài đặt cụ thể trong máy tính chỉ có trong một vài lĩnh vực nhất định.

- Agent có tự do ý chí (Autonomy): Bởi vì Agent có khả năng giải quyết những trường hợp xác định nào đó, mà các lập trình viên chưa dự tính tới, tức là nó không chỉ làm những gì mà lập trình viên ra lệnh cho nó, mà nó còn có những hành động (action) và kế hoạch (plan) của riêng nó, vì vậy Agent có tự do ý chí [10].

Như vậy, ta có thể thấy Agent là một vật thể có Tri thức. Việc giải thích cụ thể cách cài đặt Agent về mặt toán học và về kỹ thuật máy tính đòi hỏi phải viết nhiều tập sách về triết học, toán học, trí tuệ nhân tạo, máy tính... và hoàn toàn ra khỏi phạm vi bài viết này. Sự ra đời của Agent đã mở ra một kỷ nguyên mới về lập trình trên máy tính. Thế giới đã chuyển từ kỷ nguyên lập trình hướng đối tượng (OOP - Object Oriented Programming) sang kỷ nguyên lập trình hướng Agent (AOP - Agent Oriented Programming). Tuy khả năng tự tư duy của Agent còn hết sức hạn chế, nhưng các ứng dụng của các Multi-Agent System và Mobil Agent trong các ngành khoa học không còn là viễn tưởng. Các ứng dụng của Agent hết sức đa dạng, ví dụ như các softbot tìm kiếm thông minh trên Internet, hệ thống điều khiển không lưu tự động của sân bay Sydney, Australia (hệ thống điều khiển không lưu tự động duy nhất trên thế giới cho đến nay), các hệ thống trợ giúp thông minh trong thương mại điện tử (e-Commerce), hệ thống đào tạo phi công của Không lực Hoàng gia Anh quốc, Hệ thống mạng tích hợp Multimedia thông minh của IBM, hệ thống tàu điện không người lái của Siemens, hệ thống sản xuất động cơ xe Mercedes-Benz trong nhà máy sản xuất xe Mercedes-Benz lớn nhất thế giới của tập đoàn Daimler Chrysler tại Sindelfingen, Đức [11]...

Tuy nhiên, dù có thành công thế nào đi nữa, học thuyết biểu diễn Tri thức thứ hai này cũng không diễn tả được Tri thức một cách hoàn chỉnh. Nó chỉ là hình chiếu của Tri thức, qua đó người ta có thể cảm nhận được Tri thức, chứ nó không phải là bản thân Tri thức, như lời của đức Phật đã bảo "Hãy nhìn theo ngón tay ta chỉ, con sẽ thấy mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng".

Tất cả các mô hình Tri thức, dù thành công hay thất bại cũng chỉ là ngón tay chứ không phải mặt trăng.

CHL (trích Hợp tuyển thần kinh)

Xem kỳ sau: Luận bàn về tri thức (2)


[1Một số học giả cho rằng Tri thức có vai trò Triết học và Khoa học, nhưng thực ra Triết học là khoa học của mọi khoa học, bao trùm lên toàn bộ các khoa học, nên nhận định Tri thức có vai trò Triết học là đủ.

[2Mục đích của bài viết là nêu lên các khía cạnh khác nhau trong việc cảm nhận và luận giải Tri thức, chứ không nhằm mục đích chứng minh về sự tương đồng về triết học cũng như khoa học tự nhiên giữa các trường phái triết học Đông phương với khoa học hiện đại. Do đó, bạn đọc quan tâm đến vấn đề này nên tìm đọc nguyên tác của các tác giả đã được đề cập tới trong bài viết.

[3Nhiều học giả nghiên cứu triết học phương Đông ngộ nhận rằng đồ hình Thái cực và Bát quái xuất phát từ thuyết Vô vi của Lão Tử, và được thể hiện trong kinh Dịch của Khổng Tử (?- hiện nay một vài nhà nghiên cứu triết học phương Đông cổ đại đặt vấn đề nghi ngờ rằng kinh Dịch không phải do Khổng Tử viết, vì nó hoàn toàn xa lạ với các tư tưởng, quan điểm và đối tượng nghiên cứu của ông trong các tác phẩm khác như Luận Ngữ, kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Xuân Thu...), nhưng thực ra đồ hình này đã xuất hiện trong thuyết Vô song nguyên lý của Phục Hy từ thời kỳ hoang sơ mông muội, trước thời Lão tử và Khổng tử rất lâu.

[4Tiền đề trong Triết học cũng như trong các ngành khoa học tự nhiên là những mệnh đề mặc nhiên được coi là đúng, không cần phải chứng minh, được dùng làm xuất phát điểm để xây dựng nên những mệnh đề và các học thuyết. Với ý nghĩa tổng thể, tính đúng của các tiền đề chỉ là tương đối, và đã không ít lần trong lịch sử phát triển của Triết học và các ngành khoa học tự nhiên, các tiền đề trước đây được coi là đúng đã bị phủ nhận là sai, do các quan sát, thực nghiệm, hoặc do sự thay đổi hệ thống quy chiếu ...

[5Điều này không hoàn toàn đúng với tất cả loài người, vì có những kẻ không có khả năng tự suy nghĩ và tìm ra giải pháp cho bất kỳ một hoàn cảnh nào, nếu không được dạy trước, không gặp hoàn cảnh đó trước, hoặc không có ai bảo cho là phải làm gì.

[6Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) là ngành khoa học nghiên cứu về Trí thông minh, các thuộc tính của nó và các khả năng mô phỏng lại Trí thông minh bằng các công cụ của con người. Máy tính (computer) được dùng như một công cụ để mô phỏng Trí tuệ, nghĩa là ngành khoa học về máy tính (Computer Science) đóng vai trò cung cấp phương tiện cho ngành AI, chứ AI không phải là một bộ phận của ngành khoa học về máy tính, và AI không chỉ ứng dụng có mỗi máy tính trong quá trình nghiên cứu của mình. Căn cứ vào những thành tựu của ngành sinh học phân tử và của điện tử học hiện nay, chúng ta không loại trừ khả năng ngành AI sẽ cho ra đời những bộ máy điện tử và người máy được điều khiển bởi những bộ não người hay các cơ chế tương tự như não người được tạo ra bởi sinh sản vô tính, xuất phát từ các ADN. Chúng ta cũng không loại trừ khả năng tạo ra những Người nhân tạo, bởi sinh sản vô tính. Tất cả những vật thể như vậy là vật thể nhân tạo có trí tuệ, nên hoàn toàn là thuộc trong phạm vi nghiên cứu của ngành Trí tuệ nhân tạo.

[7Có một số kẻ viết rằng vũ trụ được tạo ra từ vụ nổ của một điểm vô cùng nhỏ có tỉ trọng vô cùng lớn, nhưng thực ra nguồn gốc của vũ trụ (được miêu tả cả bằng triết học lẫn bằng các ngành khoa học tự nhiên) là một Thể Thống nhất, mà trong thể này không có độ lớn-nhỏ về không gian, không có sự lâu-mau về thời gian, cũng chả có sự tách biệt giữa không gian-thời gian và các chiều của nó, không có sự nặng-nhẹ về trọng lượng, cũng không có các khái niệm nhị nguyên trên-dưới, nóng-lạnh, nhanh chậm... Những kẻ đó đã cóp nhặt một cách vụng về và chế biến sai lầm tư tưởng của các nhà khoa học khác.

[8Dịch computer là máy vi tính là sai lầm, vì ít nhất cũng có ba loại máy tính (computer) khác nhau là mainframe computer, mini computer và micro computer.

[9Đây không phải là một chuyên khảo về toán học và biểu diễn Tri thức, nên bạn đọc quan tâm đến vấn đề này có thể đọc công trình của các tác giả đã được nêu. Hiện nay first-order logic đã bị loại bỏ do tính hạn chế của nó trong việc biểu diễn một vài tiến trình hoạt động của Tri thức, mà minh chứng rất cụ thể là bài toán "Zeus, Jupiter và Kronos".

[10Như vậy, ngày nay, tuy còn khá hạn chế, máy tính đã bước đầu biết hoạt động để đạt tới những mục tiêu định sẵn, chứ không lệ thuộc hoàn toàn vào những lệnh cụ thể và giải thuật nhất định của các lập trình viên.

[11Tập đoàn Daimler Chrysler đã chi hơn 200 triệu USD cho một nhóm chuyên gia toán học, chế tạo máy và lập trình tại Đức nghiên cứu đề tài này. Riêng nhóm nghiên cứu phát triển công nghệ Agent, đặc tả và thiết kế hình mẫu nhà máy công tác tại System and Technology Research của Daimler Chrysler tại Berlin gồm có 8 người (7 người Đức và 1 người nước ngoài). Tác giả của bài viết này là một lập trình viên trong nhóm, có nhiệm vụ xây dựng hệ thống giả lập (simulation) nhà máy trên máy tính và lập trình các hệ thống Multi-Agent cho một số trạm làm việc và băng chuyền.