Phần năm: Tư tưởng triết học Hy Lạp (1)

I - BƯỚC ĐẦU CỦA VĂN MINH HY LẠP

Thế kỷ thứ VIII - thứ VII TCN là giai đoạn phát triển đầu tiên của những quốc gia thành thị Hy Lạp. Trước đấy ở đất Hy Lạp đã có hai nền văn minh phát triển: văn minh Crète và sau đấy là văn minh Mycènes. Nhưng vào thiên niên kỷ thứ II, khoảng sau 1200 TCN, có một cuộc xâm lăng lớn của những bộ lạc Doriens, những bộ lạc này cũng là một chi nhánh của chủng tộc Hy Lạp nhưng còn ở thời kỳ dã man. Lúc chuyển vào Hy Lạp thị tộc Doriens đã phá phách những kết quả của văn minh Mycènes (kết quả đó thực tế cũng chưa cao lắm mà còn ở thời kỳ bộ lạc tan rã). Do đó chủng tộc Hy Lạp lại trở lại trình độ dã man. Trong mấy thế kỷ thứ X - thứ IX TCN không để lại di tích gì, mãi đến thế kỷ thứ VIII TCN, những thị tộc ấy mới lại phát triển và xây dựng những quốc gia thành thị lớn ở tại Tiểu Á và bán đảo, đặc biệt là những thành thị như Mytilène, Ephèse, Milet ở Tây Tiểu Á, Corinthe ở bán đảo. Đặc điểm của những quốc gia thành thị mới này là đã phát triển được chế độ cộng hoà quí tộc.

Trái với những bước đầu của văn minh chiếm hữu nô lệ ở Đông phương là quân chủ độc đoán - tổ chức Nhà nước đã phải xây dựng bằng cách tập trung triệt để chính quyền quí tộc để bảo đảm những điều kiện tổ chức tối thiểu nhằm phát triển công thương nghiệp, xây dựng đời sống thành thị và đánh đổ chế độ thị tộc - thì ở Hy Lạp ngay buổi đầu tổ chức Nhà nước đã được xây dựng theo một hướng chống quân chủ. Tất nhiên nó chỉ thực hiện dân chủ giữa hàng quý tộc với nhau, nhưng căn bản đây đã là một hướng đối lập với hướng phát triển ở Đông phương. Ở Hy Lạp, nhân dân tự do vẫn bị đàn áp, nhưng tương đối còn dễ chịu hơn nhân dân ở Đông phương. Có thể nói: ở Đông phương chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển bằng cách nô lệ hoá cả dân tộc tự do, tập trung quyền vào một người; còn ở Hy Lạp trái lại theo hướng chống hình thức độc đoán.

Tại sao hướng này sẽ ngày càng phát triển và đến thế kỷ thứ V TCN đưa tới chế độ dân chủ chủ nô? Tại sao có hướng đặc biệt ấy và hướng ấy lại ngược hằn với hướng của Đông phương? Tại sao trên cơ sở hướng ấy đã phát triển những tư tưởng mới đã thành một tài sản rất đặc biệt trong dĩ vãng tinh thần nhân loại? Đó là những tư tưởng tự do bình đẳng, khoa học (khoa học tách rời tôn giáo), nghệ thuật (nghệ thuật có giá trị tương đối với tôn giáo). Tại sao tất cả những lý tưởng cao nhất mà văn minh cũ để lại đã được phát triển một cách đặc biệt cao độ ở Hy Lạp?

Đây là cái sử học tư sản gọi là thần tích Hy Lạp. Cơ sở thực tế của “thần tích” ấy là:

Quan hệ sản xuất hàng hoá đã phát triển trên cơ sở chiếm hữu nô lệ, nhưng phát triển một cách đặc biệt nhanh chóng, do đó đánh đổ từng bước quyền thống trị của giai cấp quí tộc. Sở dĩ có sự phát triển nhanh chóng như thế, là vì chủng tộc Hy Lạp đã tiến lên văn minh trong những điều kiện đặc biệt thuận lợi:

Điều kiện thứ nhất - Lịch sử thế giới đã xây dựng được những sức sản xuất khá cao: kỹ thuật đồng đen đã phát triển cao độ, kỹ thuật đồ sắt đã bắt đầu xây dựng (kỹ thuật đồ sắt ở Tiểu Á xuất hiện từ thế kỷ XII TCN, và phát triển khá nhiều ở thế kỷ VIII TCN).

Điều kiện thứ hai - Hy Lạp có một hoàn cảnh địa lý đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển thương nghiệp giữa các đảo hay các khu vực tương đối nhỏ hẹp ở bán đảo Hy Lạp và ở Tây Tiểu Á, do đó, trong những thành thị nhỏ tốc độ phát triển công thương nhanh chóng, giai cấp công thương có điều kiện để đấu tranh chống quí tộc. Thậm chí ngay buổi đầu (thế kỷ VIII TCN) chính giai cấp quí tộc đã đứng đầu phong trào công thương, đã bỏ vốn để lập những xí nghiệp thủ công đầu tiên (làm đồ gỗ, đồ đồng, đồ sắt) và phát triển hải thương (hải thương lúc bấy giờ liên hệ chặt chẽ với nghề cướp biển). Vì thế mới đánh đổ được chế độ quân chủ, xây dựng chế độ cộng hoà đầu tiên (cộng hoà quí tộc).

Điều kiện thứ ba - Chủng tộc Hy Lạp đã khởi hành ở một bước cao như thế là nhờ cả công trình xây dựng của văn minh Đông phương, nhờ công trình ấy mới có kỹ thuật đồ đồng, đồ sắt mà những thị tộc Hy Lạp đã được ngay từ lúc đầu.

Điều kiện thứ tư - Một điều kiện đặc biệt nữa đã giúp nhiều cho sự phát triển đầu tiên của những thành thị Hy Lạp là những đất xung quanh còn ở trình độ dã man, do đó đã trở thành khu vực thuận tiện cho các thành thị Hy Lạp mới xuất hiện đến đặt căn cứ địa thực dân. Nhờ phong trào thực dân phát triển ở thế kỷ thứ VIII, thứ VII TCN, công thương nghiệp trong những thành thị Hy Lạp phát triển nhanh chóng mà trong giai đoạn đầu (thế kỷ thứ VIII TCN) đã tạm thời giải quyết được những mâu thuẫn giai cấp, làm cho giai cấp quí tộc công thương (quí tộc tư sản hoá) đã nắm vững được chính quyền và không gặp sự đối kháng nào quan trọng. Mãi đến giữa thế kỷ thứ VII TCN, mâu thuẫn giai cấp mới phát triển, phong trào công thương chủ nô mới xuất hiện những tư tưởng chống tôn giáo như triết học khoa học. Trong giai đoạn trung gian, giai đoạn quí tộc công thương thống trị, tất nhiên chưa thể có triết học độc lập, nhưng giai cấp quí tộc, vì có tư bản hoá phần nào, nên cũng đã có một nội dung tiến bộ. Nội dung tiến bộ ấy được phản ánh thế nào trên tư tưởng?

Homere

HOMÈRE (thế kỷ thứ VIII TCN)

Tác phẩm tóm tắt nội dung tiến bộ của bước đầu xây dựng văn minh Hy Lạp là những anh hùng ca của Homère: Illiade và Odyssée. Illiade và Odyssée phản ánh sự thành lập và sự phát đạt của bộ tộc Hy Lạp, phản ánh quyền lợi của giai cấp quý tộc công thương, nhưng đồng thời cũng phản ánh sự phát triển của sức sản xuất, bước tiến bộ của nhân dân dưới sự thống trị của bọn quí tộc công thương, vì trong giai đoạn thế kỷ thứ VIII TCN và đầu thế kỷ VII TCN, chế độ ấy còn là chế độ đang lên, quyền lợi của nó còn phù hợp với quyền lợi của nhân dân (nhân dân tự do). Các tác phẩm đó trước hết phản ánh phong trào ngoại thương, lập căn cứ địa, nhờ đấy mà văn minh thành thị đã được xây dựng nhanh chóng.

ILLIADE

Nội dung Illiade là kể lại cuộc chiến tranh của liên minh bộ lạc Hy Lạp chống thành Troie. Theo truyền thuyết kể lại trong Illiade, sở dĩ các nước Hy Lạp đã liên minh đánh Troie trong 10 năm và cuối cùng tiêu diệt Troie, mục đích là đòi lại bà Hélène mà Pâris đã cướp của ông vua Ménélas. Trong truyện này có vai trò của thần thánh. Sở dĩ Pâris cướp được Hélène là nhờ nữ thần luyến ái Aphrodite, nhưng do đấy có sự đối lập với hai nữ thần khác: thần kết hôn chân chính tức thần gia đình Hera và thần kỹ thuật văn minh Athena. Cuối cùng thần gia đình và thần khoa học kỹ thuật thắng thần luyến ái bất chính. Nhưng thực ra thứ truyền thuyết đó phản ánh những điều kiện kinh tế rất rõ rệt.

Thành Troie ở cửa eo biển Hellespont (nay là Dardanelles) là chỗ bảo vệ đường đi từ Địa Trung Hải vào Hắc Hải. Một bộ phận quan trọng của khu vực thực dân Hy Lạp lúc bấy giờ chính là bờ biển Hắc Hải. Những thành thị như Corinthe, Milet, Mytilène, Chalcis đều gửi thuyền đi buôn bán, cướp nô lệ và đặt căn cứ thực dân, đặc biệt ở phía Nam Hắc Hải. Buôn bán lúc bấy giờ là đi mua khoáng sản như thiếc (thiếc là một kim khí rất quí để làm đồng đen). Họ mua sắt, gỗ quí, cá khô và bán đồ đồng, đồ gốm, rượu đặc (rượu đặc là thứ rượu phải pha nước vào mới uống được, sở dĩ làm đặc như thế là để vận tải được bằng thuyền nhỏ). Rõ ràng Troie là một vị trí quân sự và thương mại đặc biệt, nó bảo vệ một đường phát triển thương nghiệp đặc biệt quan trọng cho tất cả các thành thị Hy Lạp không riêng thành thị nào. Chuyện thần tiên kể lại về Hélène tất nhiên chỉ là lý tưởng hoá một nhu cầu kinh tế và quân sự trong thực tế; nó lấy cái thắng lợi của cái liên minh giữa các vua bộ lạc Hy Lạp đời xưa đánh Troie, để biện chính quyền lợi của các thành thị Hy Lạp bấy giờ ở vị trí quyết định ấy. Vị trí ấy tất nhiên là chiếm của nền văn minh cũ, văn minh Đông phương. Theo người Hy Lạp hiểu thì văn minh Đông phương chỉ phát triển theo hướng vật chất, tức theo hướng luyến ái hưởng lạc; trái lại, Hy Lạp phát triển một cách chân chính: xây dựng gia đình, xây dựng kỹ thuật khoa học. Đấy cũng là một ý kiến. Chính liên minh của những vua bộ lạc cũng phản ánh rõ ràng liên minh thực tế của những thành thị Hy Lạp, vì những thành thị ấy có những liên quan với nhau trên những quyền lợi chung nhất định, nhưng thực tế vẫn không thống nhất hoàn toàn. Chưa bao giờ họ có thể thống nhất thực sự. Đặc điểm của bộ tộc Hy Lạp là nó có một tiếng nói chung, một nguồn gốc chủng tộc chung, một truyền thống chung, một khu vực nhất định, và cũng có thể nói đến một mức độ nào đấy, một hệ thống kinh tế chung, nhưng về mặt chính trị nó không thống nhất. Nó là một bộ tộc chỉ thống nhất trên cơ sở tự nguyện tự giác và trao đổi tự do.

Điều đó được phản ánh trong liên minh quân chủ bộ lạc đi đánh Troie. Đặc biệt trong Illiade kể chuyện Achille ra trước đại hội mắng Agamemnon (là lãnh tụ liên minh), rồi bị Agamemnon tước mất nàng hầu là Briséis. Vì bực tức, Achille đã bỏ chiến đấu, thậm chí yêu cầu mẹ là nữ thần Thétis đến xin thần tối cao là Zeus ủng hộ quân thù để làm cho quân đội Hy Lạp thất bại, để cho thấy rõ mất Achille thì tai hại như thế. Quả nhiên quân đội Hy Lạp bị thua to. Sau đấy, Achille mới chịu ra đánh và lại thắng, giết chết Hector, tướng của Troie. Truyền thuyết ấy biểu lộ quan hệ liên minh trên cơ sở bình đẳng tự do. Bất kỳ một nước nào trong quân đội cũng có thể rút ra khi bất mãn. Chính những quan hệ ấy thực tế đã phát triển giữa các thành thị trong lịch sử Hy Lạp (không bao giờ thống nhất với nhau, chỉ liên minh trên cơ sở những quyền lợi nhất định). Nhưng cái lạ nhất là trong liên minh lỏng lẻo ấy vẫn có sự đoàn kết. Người Hy Lạp vẫn có ý thức mong ước thống nhất. Tư tưởng thống nhất là một lý tưởng không thực hiện được, nhưng có căn cứ, được biểu hiện một cách lý tưởng hoá trong liên minh quân chủ bộ lạc đi đánh Troie. Vì muốn đòi lại Hélène, người đẹp nhất lúc đó, mà hai bộ tộc đã đánh nhau 10 năm, giết mất bao nhiêu
tướng sĩ. Chính tính chất mơ hồ của động cơ ấy phản ánh tính chất lý tưởng của sự thống nhất trong bộ tộc Hy Lạp.

Lý tưởng đó cũng được phản ánh trong thế giới thần thánh. Những thần thánh trên núi Olympe được tổ chức một cách lỏng lẻo tựa như ở trần gian. Có thần Zeus ngồi trên và thống trị những thần khác nhưng một cách khó khăn, vì những thần kia tuy nhận sự thống trị của Zeus nhưng có nhiều hành động vô kỷ luật, giữa phái này và phái kia luôn luôn cãi nhau. Zeus lúc ủng hộ phái này, lúc ủng hộ phái kia, uy quyền không bao giờ vững vàng. Tuy thế vẫn là một thế giới phần nào đã có hình thức thống nhất. Điểm quan trọng ở đây là phản ánh bước giải phóng khỏi những giới hạn hẹp hòi của chế độ thị tộc, tiến lên một xã hội về mặt hình thức là xã hội nhân loại tuy thực tế là xã hội bộ tộc chủ nô. Về nguyên tắc, xã hội này là một xã hội rộng rãi vì đã thoát khỏi giới hạn thị tộc, đặt kỷ luật chung cho mọi người, tiến lên xây dựng lý tưởng tốt đẹp, đúng đắn, có hình thức chung cho mọi người. Bước chuyển biến ấy đã thực hiện bằng cách trải qua quyền tự do quyết định của mỗi bộ phận chứ không thực hiện như ở Đông phương bằng quyền quân chủ độc đoán, nó thực hiện bằng một thứ liên minh lỏng lẻo, trên cơ sở tự nguyện tự giác, chưa thành pháp luật nhưng đã có lý tưởng thống nhất. Đó là nói về nội dung dân tộc của Illiade.

ODYSSÉE

Về Odyssée, nội dung cũng phản ánh phong trào phát triển thành thị, xây dựng căn cứ địa ở ngoài. Illiade phản ánh quyền lợi của những thị tộc ở phía Đông Bắc. Odyssée phản ánh quyền lợi của những thị tộc Hy Lạp ở phía Tây Bắc. Đại khái, cuộc phiêu lưu của Ulysse nhắc lại những quãng đường thương mại lớn về phía Tây Địa Trung Hải. Ulysse sau khi chiếm xong Troie theo con đường từ Troie chuyển lên đất Cicones tức là Thrace cướp nô lệ và rượu, rồi đi về đất nước của ông ta là cù lao Ithaque thuộc phía Đông bờ Illyrie (Nam Tư bây giờ). Theo đúng đường thì phải đi quanh bán đảo Péloponnèse qua mũi Malée, nhưng đến Malée thì gặp bão; các thuyền bị quật về Phi châu, tới một đất gọi là đất của «những người ăn hoa» (Lotophages). Từ đấy, Ulysse tới đất Italia và gặp người khổng lồ một mắt (Cyclope) ở vịnh Naples. Rồi đi tìm thần gió Eole ở cù lao Stromboli, từ đấy bị bão quật về eo biển giữa Corse và Sardaigne, gặp giống Lestrygons (ăn thịt người). Sau lại trở về bờ Italia ở cù lao của bà Circé. Bà này thường biến người thành lợn. Cù lao này ở trước mặt đất Latium. Từ chỗ bà Circé đi quanh bán đảo Italia, vào eo biển Messine, đổ bộ vào cù lao Sicile. Nhưng rồi lại bị bão làm đắm hết thuyền, chết hết người, chỉ còn Ulysse thì trôi 9 ngày tới cù lao bà Calypso ở eo biển Gibraltar. Calypso yêu Ulysse và giữ anh ta trong 7 năm. Sau Ulysse khóc dữ quá nên Calypso phải để Ulysse về. Ulysse đi một mình và sau 19 ngày tới Schérie nay gọi là Corfou. Ông vua Corfou gửi Ulysse về Ithaque.

Xét cuộc hành trình đó, ta thấy rõ nó phản ánh những vị trí buôn bán của thành thị Hy Lạp lúc bấy giờ.

Ở Thrace, có rượu nổi tiếng, dân còn dã man, có thể bắt làm nô lệ. Ở Phi châu, có nhiều thị tộc còn dã man chỉ ăn hoa quả. Người Hy Lạp đến đó để buôn bán. Vùng Tây Italia là một vị trí buôn bán quan trọng. Đặc biệt là sản xuất thiếc. Từ Ý đến eo biển Sardaigne là trên đường đi Tây Ban Nha. Eo biển Messine và Gibraltar (xưa gọi là Colonnes d’Héraclès), cũng là những vị trí quan trọng trên đường biển. Cù lao Corfou là căn cứ địa cuối cùng trên đường từ Hy Lạp đến Italia. Những thuyền buôn của Hy Lạp đi qua vịnh Corinthe, muốn sang Italia phải đi theo bờ đất lên đến đảo Corfou. Thuyền lúc đó đi ở khơi nhưng phải trông thấy mặt đất vì chưa có địa bàn. Nhưng từ Hy Lạp sang Ý thì phải qua biển Adriatique, vì nếu theo vịnh Venise thì đường đi rất nguy hiểm: Corfou chính là chỗ mà phải bỏ bờ đất mà đi thẳng qua biển, chỉ hướng theo mặt trời và tinh tú.

Cuộc phiêu lưu của Ulysse phản ánh những cuộc phiêu lưu của những thuyền đi buôn và cướp biển Hy Lạp đi chiếm đất ở Tây phương Địa Trung Hải. Về nội dung tư tưởng, nó cũng phản ánh tinh thần nhớ nhà, trung thành với đất nước, với gia đình. Ulysse trong 10 năm phiêu lưu luôn luôn thiết tha trở về Ithaque, dù có được hưởng hạnh phúc với những nữ thần Circé và Calypso hay không. Giống như Illiade là một bài học đoàn kết (kinh nghiệm chia rẽ trong nội bộ và giải quyết sự chia rẽ ấy). Odyssée là một bài học trung thành với đất nước của người đi, và tinh thần trung thành của người ở nhà đối với người đi xa (bà Pénelope).

Ở đây, trong nội dung lịch sử có một nội dung nhân đạo xuất phát từ nhân dân, vì tuy phong trào phát triển buôn bán và chiếm căn cứ địa lúc đó là do giai cấp quí tộc tư sản hoá lãnh đạo, nhưng nó cũng có lợi cho nhân dân, và thực chất của nó là của nhân dân. Nó nhằm xây dựng một ý thức bộ tộc trên cơ sở một lý tưởng chung, một giá trị chân chính.

Nhưng lúc bấy giờ giai cấp lãnh đạo là giai cấp quý tộc, ý thức hệ nhất định là dưới sự chi phối của tư tưởng quý tộc, nên những giá trị chân chính ấy cũng xuất hiện dưới hình thức thần thánh và anh hùng cá nhân (nửa thần thánh: anh hùng là con cháu thần thánh). Anh hùng ca của Homère phản ánh đến một mức nào đấy tinh thần nhân dân, nhưng đồng thời lúc đó cũng là một công cụ thống trị cho giai cấp quí tộc. Giai cấp quí tộc kể lại những cuộc chiến thắng của vua chúa, anh hùng đời xưa, cũng là để củng cố địa vị của chúng lúc bấy giờ.

Nhắc lại chiến thắng của Agamemnon và Achille chính là để củng cố cương vị thống trị của quí tộc ở thế kỷ VIII TCN, và quyền thống trị của chúng đối với eo biển Dardanelles. Mà cũng vì nó nằm trong khuôn khổ ý thức hệ quí tộc nên nhất định nó không thoát khỏi tư tưởng thần thánh. Mỗi lần có một việc quan trọng trên mặt đất, ví dụ hai tướng đánh nhau, một thắng một bại, mà việc ấy có kết quả đặc biệt cho cuộc chiến đấu chung, thì bao giờ cũng có sự can thiệp của thần thánh. Nhưng điều đặc biệt ở đây là chính sự can thiệp của thần thánh về căn bản cũng chỉ là khuếch trương ý nghĩa của những sự việc thiết thực. Trong sự can thiệp ở đây, giữa thần và người hình như có một cái gì thân thiện. Thần cũng chỉ là người to lớn, đẹp đẽ, đánh đâu thắng đấy. Thần biểu hiện lý tưởng của người.

Sự can thiệp của thần thánh về căn bản cũng chỉ là lý tưởng hoá ý nghĩa của những sự việc quan trọng trong đời sống con người. Ví dụ một tướng thắng một tướng khác thì lúc bấy giờ mới là vì có thần này thần kia can thiệp vào làm cho tướng ấy khoẻ thêm. Sự khuếch trương giá trị anh hùng ấy chính là một cách làm cho con cháu, người nghe được phấn khởi thêm, vì anh hùng ấy là anh hùng lập quốc, những chiến thắng của anh hùng trước chính là chiến thắng của quốc gia, của bộ tộc bây giờ. Nó biện chính quyền lợi bây giờ. Đấy là bước đầu hạn chế sự thống trị của tư tưởng thần thánh vào đời sống của con người.

Ngoài ra vẫn có chuyện giữa thần thánh với nhau, nhưng những chuyện ấy lại có tính chất phê phán chế giễu. Ví dụ như chuyện bà Hera vì muốn ủng hộ phe Hy Lạp trong khi chồng là Zeus lại ủng hộ phe Troyens. Bà ta đã tắm rửa sạch sẽ, mượn thất lưng của nữ thần luyến ái Aphrodite để quyến rũ chồng. Trong khi chồng đang coi sóc việc quân sự giúp Troyens, bà đã ngủ với chồng và làm cho phe Troyens thất bại. Hay là chuyện thần Lửa và thần Lò rèn Hephaistos thấy vợ là Aphrodite đi lại bí mật với thần quân sự Ares, ông ta đã rèn một lưới sắt đặt ở giường, do đó đã bắt được cặp gian phu, dâm phụ.

Ở đây, người ta đã chế giễu thần thánh, làm mất tính chất oai nghiêm như ở chuyện thần thoại ở Đông phương. Ta có thể coi đó là bước đầu phê phán tư tưởng tôn giáo trong phạm vi tôn giáo.

Bằng chứng lịch sử tư tưởng Hy Lạp sau giai đoạn duy vật, lúc trở lại hướng duy tâm đặc biệt với Platon, thì Platon lại phê phán Homère về điểm ấy, trách Homère đã diễn tả thần thánh trong những hoàn cảnh lố bịch, chứng tỏ thiếu tôn trọng thần thánh. Platon đề nghị trong Cộng hoà lý tưởng phải bác bỏ Homère, không cho đọc sách của Homère.

Điều đó chứng tỏ những anh hùng ca của Homère lúc đó tuy là công cụ thống trị tinh thần cho giai cấp thống trị, nhưng vì lúc đó giai cấp quý tộc còn là giai cấp đang lên, quyền lợi còn phù hợp với một phần với quyền lợi của nhân dân, nên trong tác phẩm của Homère cũng có một nội dung tương đối tiến bộ: chế giễu thần thánh, xây dựng tinh thần dân tộc, xây dựng những đức tính mới, những ý thức trung thành đoàn kết, tư tưởng tự do, đoàn kết trên sơ sở tự nguyện, tự giác. Thực chất nó là một nội dung tiến bộ chứ không phải là hình thức thần thánh hay hình thức quí tộc. Thành ra, những tác phẩm của Homère về sau vẫn giữ giá trị giáo dục.

Đến những lúc thành thị Hy Lạp chuyển sang chế độ dân chủ chủ nô, những tác phẩm của Homère tuy chỉ kể chuyện quý tộc, nhưng vẫn được coi như là anh hùng ca của dân tộc. Nó là những tác phẩm căn bản giáo dục người Hy Lạp. Bất kỳ người Hy Lạp nào ít nhiều cũng phải thuộc Homère. Về sau, đến đời La Mã mà đến cả thời cận đại và hiện đại, những anh hùng ca của Homère vẫn còn được coi như là những tác phẩm có tính chất giáo dục sâu sắc, vì nó là một bước mở rộng tư tưởng, xây dựng lý tưởng nhân đạo, và cũng nhờ nội dung tiến bộ ấy mà những tác phẩm của Homère thực hiện được giá trị nghệ thuật độc đáo.

Trong bài Góp phần phê phán kinh tế - chính trị học của Marx, có một đoạn nói: Hiểu rằng anh hùng ca của Homère là xây dựng trên những điều kiện xã hội nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định thì dễ hiểu. Nhưng vấn đề là tại sao trên cơ sở đó, có thời gian tính nhất định ấy, mà đến nay ta vẫn thưởng thức? Marx trả lời: người lớn không làm như trẻ con, nhưng lúc nhớ lại thời trẻ, cái mà mình nhớ vẫn có giá trị giáo dục, vẫn thưởng thức được. Nhân loại nhớ lại thời thơ trẻ của mình tuy không bao giờ trở lại thời đó, nhưng chính vì không bao giờ trở lại nữa mà những tác phẩm ấy thành ra có giá trị vĩnh cửu.

Anh hùng ca Homère diễn tả được ý nghĩa tiến bộ của giai đoạn nhân dân Hy Lạp
chuyển từ bộ lạc lên bộ tộc, đề cao tinh thần dân tộc. Tinh thần ấy có một giá trị phổ cập, vì nó dựa trên một số giá trị phổ cập để chuyển từ tổ chức hẹp hòi thành tổ chức rộng rãi trong các quốc gia thành thị, nên có những tiêu chuẩn rộng rãi hơn tiêu chuẩn đời sống thị tộc (như công lý, nhân đạo). Do đấy, tư tưởng công lý, nhân đạo được diễn tả trong anh hùng ca Homère với màu sắc đặc biệt: tự do, bình đẳng, chưa thành hệ thống (do tính chất không hoàn bị, còn rời rạc của bộ tộc, luôn luôn chia rẽ) nhưng cũng có một hình thức thống nhất nào đó biểu hiện trên mặt lý tưởng.

Tác phẩm của Homère có tác dụng rộng rãi và lâu dài đến bây giờ là vì nó có thực hiện được nội dung ấy trong hình thức nghệ thuật. Hình thức ấy chính là hình thức hiện thực. Có thể nói anh hùng ca thực hiện chủ nghĩa hiện thực đầu tiên, tuy trong đó đầy dẫy thần bí (mỗi sự kiện quan trọng trên mặt đất đều có thần thánh can thiệp vào; những anh hùng là con thần thánh hoặc của nửa thần).

Chủ nghĩa hiện thực trước nhất thể hiện ở cách diễn tả chi tiết chính xác các sự vật và sự việc. (Ví dụ: tả hai tướng đánh nhau thế nào? Lao cái lao thế nào? Vào chỗ nào?). Các hoàn cảnh được diễn tả một cách chính xác, với những nét điển hình bằng nghệ thuật so sánh, là điểm nối bật của nghệ thuật Homère. Ví dụ: tả một anh tướng khi bi thua phải rút đi, Homère so sánh với hình ảnh một con sư tử phải bỏ mồi vừa rút đi vừa tiếc rẻ quay lại, hục hặc, rồi lại bước đi. Mỗi cảnh, mỗi động tác được thể hiện bằng những hình tượng điển hình cao độ. Nghệ thuật ấy còn được vận dụ trong khi mô tả quan hệ người với nhau, hoặc tâm sự của các nhân vật (như đoạn cãi nhau giữa hai tướng Achille và Agamemnon, hoặc là đoạn thương lượng giữa Achille và đoàn đại biểu).

Trong quan hệ giữa người và người, ngoài những nét điển hình được nổi bật, còn có sự can thiệp của thần thánh, nhưng nếu bỏ yếu tố này đi, chúng ta vẫn có thể hiểu được câu chuyện. Khác với anh hùng ca Đông phương, vai trò thần thánh được thêm vào để khuếch trương ý nghĩa của sự việc.

Anh hùng ca Homère đánh dấu bước chuyển biến từ tôn giáo sang nghệ thuật đúng với danh nghĩa của nó. Trước kia thần thánh cũng được diễn tả bằng nghệ thuật, nhưng nghệ thuật chỉ là phụ, tôn giáo là chính. Ở đây, nghệ thuật là chính: ý nghĩa câu chuyện được diễn tả bằng những nét thiết thực, thêm vào đó mới là chuyện thần bí (những chuyện ấy cũng có vai trò tích cực giúp vào việc biểu dương ý nghĩa hiện thực bằng trí tưởng tượng). Có thể nói: chuyện thần thánh ở đây là công cụ biểu hiện hiện thực, còn trong chuyện Đông phương, nghệ thuật dùng làm công cụ phục vụ tôn giáo. Anh hùng ca Homère tuy có thần bí, nhưng chúng ta có thể thông cảm được ý nghĩa hiện thực, mà thực chất của ý nghĩa ấy là tiến bộ. Một mặt, nó có tác dụng củng cố uy quyền thống trị của cộng hoà quí tộc, nhưng mặt khác nó cũng có một nội dung nhân dân tính. Nội dung ấy bao gồm những giá trị nhân đạo, xây dựng trong khuôn khổ hẹp hòi của xã hội bấy giờ, nhưng tiến bộ vì diễn tả xã hội quý tộc chủ nô trong bước tiến bộ và trong phần tiến bộ của nó. Phần tiến bộ ấy là thoát khỏi giới hạn hẹp hòi của chế độ thị tộc, phát triển sức sáng tạo của nhân dân, xây dựng một phương thức đoàn kết cộng rãi trong phạm vi bộ tộc, phần nào đã có lý tưởng phổ cập. Giá trị hình thức rõ ràng xuất phát từ nội dung, với tính chất tiến bộ của nó, do đó mới đạt được hình thức hiện thực chủ nghĩa đầu tiên trong thi văn. Chủ nghĩa hiện thực đây còn là hiện thực tự nhiên, nhưng nó chân chính vì nó có tác dụng giải phóng đối với tôn giáo: nó phát hiện những sự việc có thật đằng sau những mơ mộng thần bí. Nhưng hiện thực ấy, dưới chế độ thống trị thời Homère, chưa được quan niệm một cách rõ ràng bằng khái niệm, vì trong giới hạn hẹp hòi của ý thức hệ quý tộc - tuy là tư sản hoá nhưng căn bản là quý tộc - nó vẫn chưa thực sự thoát khỏi phạm vi tôn giáo.

Bước tiến bộ thứ hai thực hiện được đặc sắc của văn minh Hy Lạp là quan niệm hiện thực bằng khái niệm, với tính chất hiện thực, thực sự thoát khỏi chuyện hoang đường. Bước tiến bộ ấy chỉ có thể thực hiện trong công cuộc đấu tranh giai cấp phát triển giữa nhân dân và giai cấp quí tộc thống trị (nhân dân đây gồm: nô lệ, dân nghèo, nông dân tự do, tiểu địa chủ, và do thành phần công thương lãnh đạo). Trong bước đầu (thế kỷ VIII TCN và đầu thế kỷ VII TCN), mâu thuẫn giữa quí tộc và nhân dân đã có và tạm thời được giải quyết: cụ thể là lúc công thương nghiệp phát triển, giá hàng thủ công tăng lên, giá nông sản hạ xuống; bọn thương nhân đi mua lúa rẻ về bán cho nhân dân, mặt khác giới thủ công tổ chức công nghiệp tương đối đại quy mô thì hàng công nghệ phẩm bán đắt hơn thời thủ công cá thể. Nông dân mua đắt bán rẻ phải đi vay lãi bọn quý tộc, dần dần mất ruộng. Thợ thủ công bị sự cạnh tranh của bọn chủ nô công nghiệp, bọn này dùng nô lệ sản xuất nên giá thành rẻ hơn lối sản xuất thủ công cá thể. Nhưng những mâu thuẫn ấy tạm thời được giải quyết vì:

— Bộ phận thủ công và đại thương còn do quý tộc nắm (chúng bỏ vốn kinh doanh và nắm phương thức sản xuất mới);

— Mặt khác, những đất đai ở trình độ dã man xung quanh Hy Lạp còn nhiều, phong trào lập căn cứ địa phát triển, dân nghèo bị phá sản được đem đến làm ăn (Bỏ Hắc Hải, Nam Ý, Sicile, v.v...)

Nhưng đầu thế kỷ thứ VII TCN, các căn cứ địa giảm bớt, thuyền nhỏ không thể đi xa hơn được; thậm chí các thành thị mới lại có khả năng cạnh tranh với thành thị cũ, do đó nguồn lợi bên ngoài giảm sút. Bên trong lại xuất hiện giai cấp phú thương thủ công mới xuất thân từ nhân dân. Quá trình phá sản của nông dân và thủ công càng trầm trọng. Trong các thành thị Hy Lạp luôn luôn có sự tranh giành chính quyền giữa hai phe quí tộc và dân chủ (giết nhau, hoặc đuổi nhau đi). Vấn đề phương thức áp bức bóc lột, nghĩa là phải xây dựng pháp lý. Trong giai đoạn trước, bọn quí tộc nắm chính quyền, đồng thời nắm quyền xử án theo lễ nghi thời trước, làm việc bí mật, nên lúc xử án luôn luôn bên nhà giàu được thắng thế. Đòi hỏi chung của xã hội là xây dựng pháp lý, ghi rõ và công bố luật lệ.

II – TRIẾT HỌC HY LẠP

Song song với phong trào xây dựng pháp lý (hợp lý hoá đời sống xã hội) cũng phát triển một phong trào triết học duy vật, đánh đổ những chuyện hoang đường, đánh đổ trực tiếp ý thức hệ quý tộc. Nguồn gốc của triết học là ở phong trào nhân dân, dựa vào những khái niệm mới xây dựng trên kinh nghiệm lao động vật chất, tức là dựa vào khoa học đầu tiên, để đánh đổ tôn giáo. Do đó, đánh đổ cơ sở tư tưởng biện chính cho quyền áp bức bóc lột của giai cấp quý tộc, tức là về căn bản và trong nguồn gốc, triết học là khoa học, là thế giới quan và nhân sinh quan duy vật của khoa học, giải phóng nhân dân, xây dựng một đời sống hợp lý. Nhưng tất nhiên lúc ấy chỉ có thể thực hiện trong giới hạn hẹp hòi của giai cấp tương đối tiến bộ là giai cấp công thương chủ nô. Do giới hạn hẹp hòi ấy, chủ nghĩa duy vật cũng chưa phải là hoàn toàn dứt khoát, và phương pháp tư tưởng tuy căn bản là biện chứng, nhưng thực tế phải dựa vào khuôn khổ máy móc của phương thức sản xuất tư hữu (công thương nghiệp tư hữu). Nhưng với tất cả giới hạn hẹp hòi ấy, nó đã mang chân lý căn bản của nó tức là chủ nghĩa duy vật, tư tưởng biện chứng, và tác dụng giải phóng.

Bản đồ Tiểu Á và cổ Hy Lạp

Triết học đầu tiên được thực hiện với tiêu chuẩn ấy là triết học của Milet. Milet là thành thị buôn bán to nhất và quan trọng nhất ở Hy Lạp trong thế kỷ VII TCN. Riêng nó đã được 90 căn cứ địa ở bờ Hắc Hải, có một con cứ địa lớn ở bờ biển Ai Cập (một khu tự do buôn bán: ở thành phố Naucrates), và nhiều thành thị ở Nam phần Italia. Tóm lại, căn cứ địa của Milet rải rác từ Ý cho đến chân núi Caucase (miền Bakou). Đồng thời Milet phát triển thương nghiệp với Ai Cập và phía Tây Tiểu Á và Lưỡng Hà), vì thế những nhà bác học tiếp thu được di sản hiểu biết của nền văn minh cổ đại Đông phương. Có thể nói: trong một giai đoạn, Milet trở thành trung tâm của Tây Á và Địa Trung Hải (trung tâm buôn bán và trao đổi văn hoá).

Trong thế kỷ VII TCN, ở Milet xuất hiện phái triết học duy tâm đầu tiên gọi là phái Milet gồm: Thalès (năm 685 TCN), Anaximandre (năm 665 TCN), Anaximène (năm 645 TCN) [1]. Đặc điểm của phái này là đặt vấn đề: thực chất của thế giới là gì? Trước kia, tôn giáo đặt vấn đề nguồn gốc thế giới, và giải quyết bằng chuyện hoang đường (ví dụ: ông thần đầu đẻ ra các ông khác...).

THALÈS (khoảng 625 – 546 TCN)

Thalès đặt vấn đề thực chất của thế giới là một thứ vật chất: nước. Nước bốc thì thành hơi, thành lửa và đọng lại thì thành đất. Điểm căn bản là thực chất của sự vật là vật chất, và từ vật chất xây dựng mọi sự vật một cách hợp lý. Về phương pháp tư tưởng, Thalès đã quan niệm được sự vật trong cái biến chuyển của nó: nước là chất động, chuyển thành các chất khác. Nhưng định nghĩa sự biến chuyển ấy như thế nào, thì Thalès chưa ra khỏi được những khái niệm máy móc và chưa thể có khái niệm biện chứng. Vì sao? Vì tư tưởng tiến bộ này là tư tưởng của giai cấp công thương chủ nô. Chính Thalès cũng là một công thương nhân tiến bộ, đã biết đầu cơ (buôn bán lúc đầu là đi ăn cướp, sau là trao đổi thường, và cuối cùng tiến lên đầu cơ). Theo truyền thuyết, người ta kể rằng: Có người hỏi ông: Vì sao có tài mà vẫn nghèo? Ông trả lời: vì không muốn làm giàu, chứ nếu muốn thì cũng dễ. Ông xem thiên văn, biết năm ấy được mùa ôliu, nên đặt thuê trước các máy ép dầu ở Milet. Đến vụ mùa, ông cho thuê lại máy ép với giá rất đắt. Đó là một hoạt động mới mẻ, vì ông không nhằm sản xuất và trao đổi sản phẩm vì sản phẩm ấy, nhưng là trao đổi vì lợi, và định nghĩa
sản phẩm bằng giá trị kinh tế của nó. Thalès đã vượt lên trên cụ thể tính của sản phẩm và trong lúc trao đổi, ông đã nhằm giá trị trao đổi có thể tăng lên được của sản phẩm tách rời khỏi hình thức cụ thể với giá trị thực dụng của nó. Ông đã phân biệt giá trị trao đổi và giá trị thực dụng sản phẩm. Thalès là người sáng lập ra nền kinh tế khoa học đầu tiên (kinh tế học tư sản).

Thalès

Vấn đề triết học mà Thalès đề ra, rõ ràng phản ánh hoạt động kinh tế, kinh nghiệm thực tế của giai cấp công thương đang lên, vì trong hoạt động trao đổi mà qua đó xây dựng giá trị trao đổi thì xuất hiện một khái niệm trừu tượng của một cái gì đấy mà có thể biến thành bất cứ một cái gì khác (đồng tiền có thể biến thành một sản phẩm nào cũng được). Trước đó chỉ có từng vật cụ thể với tính chất cụ thể của nó, vậy thì không có lý do đặt vấn đề thực chất của tất cả các sự vật là gì.

Nhưng hoạt động trao đổi đi đến trừu tượng hoá, tách sự vặt ra khỏi các hình thái cụ thể, cá biệt, nắm được giá trị trừu tượng (giá trị trao đổi); và qua giá trị ấy người ta có thể trở lại bất kỳ một giá trị cụ thể nào, thì trong tư tưởng xuất phát ra một vấn đề: có một thực chất nào đấy mà thực chất này biến chuyển thành tất cả các thực thể cá biệt.

Trong vấn đề này có hai mặt:

Mặt trừu tượng: một khái niệm thể hiện trong vô số hiện tượng;

Mặt cụ thể thực tế: là một quá trình biến chuyển từ hiện tượng nọ qua hiện tượng kia, và nếu có quá trình này thì nó phải có một cơ sở thống nhất.

Xét cơ sở thực tế ta thấy cũng có hai mặt:

Một là: công trình lao động phát triển, sức sản xuất đã hệ thống hoá được tổ chức sản xuất trong một phạm vi rộng rãi, do đấy có thể nắm được quá trình chuyển biến từ vật nọ sang vật kia.

Hai là: hoạt động đầu cơ của tư sản chủ nô lợi dụng trình độ tổ chức lao động ấy để xây dựng một tổ chức bóc lột. Nhưng sở dĩ tổ chức bóc lột đạt được mức cao như thế cũng là nhờ dựa trên một tổ chức lao động (ví dụ: địa chủ thì bóc lột theo kiểu trực tiếp chứ không tính toán).

Với bước tiến bộ thực tế ấy trong giới hạn hẹp hòi của nó, chúng ta cũng thấy bước tiến bộ trong tư tưởng với những giới hạn của nó: là đặt được vấn đề cơ sở thống nhất của sự biến chuyển, nhưng giới hạn ở chỗ đặt vấn đề với hình thức trừu tượng, lấy một vật cụ thể làm thực chất rồi diễn tả sự biến chuyển của thực chất ấy một cách máy móc.

Nhưng trong giới hạn ấy, Thalès lần đầu tiên đã đạt được tư tưởng cơ sở khoa học, tức là khái niệm vật chất và những biến chuyển của nó, đồng thời Thalès cũng đặt phương pháp tư tưởng duy lý để diễn tả cái biến chuyển ấy.

Phương pháp tư tưởng duy lý đây là lý luận kỷ hà - toán lý. Về căn bản, toán lý đã xuất hiện ở Đông phương (Ai Cập) nhưng là toán lý thực dụng (những bảng nhân chia hay phép tính diện tích rất cần cho nhân dân Ai Cập để đo lại ruộng sau những trận lụt ở ven sông Nil. Người Ai Cập có công thức thực dụng đo diện tích không chính xác lắm nhưng cũng tương đối. Ví dụ: tính diện tích một tứ giác thì họ phân nửa tổng số các cạnh đối diện: [(a + b) x (b + d)]/2

Ở Lưỡng Hà đã phát hiện những bảng Thiên văn, ghi những hiện tượng của mặt trăng, nhưng chỉ mới ghi bằng kinh nghiệm hoặc mở rộng kinh nghiệm, chưa có lý luận thành hình và chưa phái là khoa học chính xác). Thalès, theo truyền thuyết, là người đầu tiên xây dựng lý luận tương đối chính xác; nó không đóng khung trong thực nghiệm chủ nghĩa. Tất nhiên, Thalès tiếp thu được kỹ thuật của Lưỡng Hà, Ai Cập, nhưng bước tiến này có tính chất biến chất, chuyển từ kinh nghiệm chủ nghĩa đến lý luận. Ví dụ: chứng minh được: 2 hình tam giác có một 1 cạnh kèm giữa hai góc bằng nhau là bằng nhau.

Đặc điểm của khoa học Hy Lạp (mà sử học Âu châu gọi là «thần tích Hy Lạp») là đặt vấn đề để chứng minh chính xác và tìm ra được những dẫn chứng chính xác trên mặt lý luận, chứ không đóng khung trong kinh nghiệm chủ nghĩa và thực dụng chủ nghĩa.

Bước tiến bộ này có tính chất gì? Các sử gia tư sản cho rằng tiến bộ ấy có được là nhờ chủ nghĩa duy tâm, nghĩa là lý trí con người ta tách khỏi những vật thể thiết thực, những kinh nghiệm cụ thể để nắm khái niệm trừu tượng, và như vậy mới có thể chứng minh bằng lý luận được, mà có chứng minh bằng lý luận mới có khoa học chính xác. Theo ý kiến ấy thì bước tiến bộ là một quá trình tách rời thực tế. Nhưng nếu chúng ta nhắc lại điều kiện cụ thể để xây dựng lý luận ấy, thì chúng ta thấy không phải chỉ có chân lý thuần túy, mà là do đòi hỏi cụ thể. Những kinh nghiệm sản xuất hoạt động kinh tế đã đi đến chỗ trừu tượng hoá, cụ thể là trong kinh tế tiền tệ, thì tư tưởng con người mới nắm được khái niệm trừu tượng và lý luận trên cơ sở khái niệm trừu tượng ấy.

Quá trình tách rời trong tư tưởng phản ánh quá trình tách rời trong thực tế. Cụ thể là tổ chức sản xuất trong kinh tế tiền tệ bước đầu được hợp lý hoá, thì cũng tách khỏi việc sử dụng trực tiếp (sản xuất cho thị trường, không phải là để dùng ngay). Nhưng tất nhiên nó cũng phải phục vụ nhu cầu cụ thể. Tức là sự tách rời chỉ là tương đối.

Trong phạm vi khoa học, những dẫn chứng lý luận dù có trừu tượng bao nhiêu như kỷ hà học, cũng phải dựa vào trực quan. Như dẫn chứng của Euclide tuy trừu tượng đến cao độ nhưng vẫn có tính chất trực quan. Khi so sánh để chứng minh hai hình tam giác bằng nhau, thì phải vẽ hai tam giác và phải làm nổi bật các quan hệ giữa hai hình ấy trên cơ sở một số đặc điểm nhất định (hai tam giác có một cạnh kèm giữa với hai góc tương ứng bằng nhau), rõ ràng lý luận thông qua trực quan, tuy là thứ trực quan trừu tượng hoá, lý tưởng hoá (như vẽ một đường thẳng trên giấy, thì trong thực tế không thể vẽ được một đường thẳng hoàn toàn...). Chúng ta có thể đoán rằng: những lý luận đầu tiên của Thalès còn có tính chất trực quan hơn là của Euclide nữa. Hơn nữa, ta thấy lý luận ấy chẳng những dựa vào trực quan mà cũng nhằm trực quan (tính diện tích để đo đạc ruộng đất, v.v...).

Chúng ta thấy công trình xây dựng thế giới quan khoa học và phương pháp lý luận khoa học là phản ánh tổ chức lao động của nhân dân, trong những giới hạn của giai cấp đương lên lúc bấy giờ là công thương chủ nô, phát triển kinh tế tiền tệ. Ảnh hưởng của tổ chức sản xuất, tác dụng của nó phải thông qua giai cấp bóc lột tương đối tiến bộ lúc bấy giờ; nhưng căn bản chân lý không phải là ở phương thức bóc lột, mà là ở tổ chức sản xuất. Phương thức bóc lột quy định về mặt hình thức thể hiện trong ý thức tư tưởng, với giới hạn hẹp hòi nhất định. Vì có những giới hạn ấy, thành ra về vấn đề thực chất là gì, biến chuyển thế nào, Thalès cũng chỉ đề ra một giải pháp giả định và sau đấy, cũng trên cơ sở ấy, cùng phái ấy, có những giải pháp khác nhau nhưng cũng trong khuôn khổ ấy.

ANAXIMANDRE (khoảng 610 – 546 TCN)

Anaximandre cho thực chất là «vô cùng», một thứ vật chất không có giới hạn nào, tức là vật chất thuần túy vô hình vô tượng. Anaximandre giải thích vấn đề: thực chất là tất cả vật chất, vậy thì không cho nó là cái gì cụ thể, mà là thực chất vô hình. Nhưng nói thực chất vô hình tất nó lại không phải là vật chất.

ANAXIMÈNE (khoảng 585 – 525 TCN)

Về sau Anaximène cho vật chất là «khí», «khí» có hai đặc điểm: phổ biến hơn nước, nhưng nó vẫn có tính chất cụ thể.

Những ý kiến ấy là những kinh nghiệm tư tưởng trên một lập trường nhất định, nó bộc lộ chân lý và đồng thời bộc lộ giới hạn hẹp hòi của tư tưởng ấy.

Trần Đức Thảo (Lịch sử Tư tưởng trước Marx, tr. 227-293)

Xem tiếp: Phần năm: Tư tưởng triết học Hy Lạp (2)

[1Những niên đại đó là những năm mà các nhà triết học ấy được 40 tuổi, tức là điểm cao nhất trong cuộc đời của một người (theo truyền thống Hy Lạp) - BT. Những tài liệu chúng tôi tham khảo ghi ngày mất và ngày sinh của các triết gia này như sau: Thalès (khoảng 625 hay 624 – 547 hay 546), Anaximandre (610 - 546), Anaximène (khoảng 585-525) - PTL