Trang nhà > Đồng bằng Bắc Bộ > Nhân vật > Đoàn Thị Điểm (1705-1748)
Đoàn Thị Điểm (1705-1748)
Chủ Nhật 11, Tháng Ba 2007
Nữ sĩ Bắc Hà đầu thế kỷ 18, được cho là tác giả bản dịch thơ Nôm nổi tiếng Chinh phụ ngâm khúc.
Ðoàn thị Ðiểm, hiệu Hồng Hà nữ sĩ, biệt hiệu Ban Tang, là con của Ðoàn Doãn Nghi và em của danh sĩ Ðoàn Doãn Luân. Tổ quán vốn ở xã Hiến Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc. Sau, bà và mẹ về ở với anh ở xã Chương Dương, huyện Ðường Hào, tỉnh Hải Dương. Năm 16 tuổi, Thượng thư Lê Anh Tuấn muốn xin bà làm con nuôi rồi ngỏ ý tiến bà vào cung chúa Trịnh, nhưng chỉ ở ít lâu bà xin về. Cùng với anh cần cù học tập bà sớm trở nên người sành văn chương.
Người anh mất, bà đảm nhận gánh nặng gia đình, chưa lấy chồng. Nhiều người đến hỏi, trong đó có cả những kẻ quyền quý (như công tử làng Hoạch Trạch là Nhữ Ðình Toản; Thượng thư làng Kim Lũ....), bà đều từ chối. Năm 1739 bà lại dẫn gia đình về xã Chương Dương, được rất đông học sinh tới học, trong đó có người sau này đỗ tiến sĩ là ông Đào Duy Ích.
Đến 37 tuổi, bà mới về kinh đô làm vợ lẽ của ông Tiến sĩ binh bộ tả thị lang Nguyễn Kiều, người làng Phú Xá, huyện Từ Liêm. Sau đám cưới vài ngày, ông Kiều phải đi sứ sang Tàu. Thời gian này Đoàn Thị Điểm nghiên cứu thiên văn, bói toán và viết sách...
Năm 1746, ba năm chờ chồng đằng đẳng vừa kết thúc, bà lại phải khăn gói, từ biệt mẹ già cháu nhỏ để đi Nghệ An, nơi ông Kiểu mới được triều đình bổ nhiệm. Ở đây buồn bã, nhớ quê nhà, bệnh hoạn xuất hiện rồi ngày càng phát, đến ngày 9 tháng 11 âm lịch, năm 1748, Đoàn Thị Điểm qua đời, hưởng dương 44 tuổi.
Tác phẩm:
Hồng Hà nữ sĩ làm thơ rất hay, tiếng tăm đã nổi từ 15 tuổi, được những bậc hay chữ cùng thời như Ngô Thì Sĩ, Đặng Trần Côn tán thưởng. Hiện chỉ còn sót lại 2 tác phẩm lớn:
1. Tục truyền kỳ
Còn gọi là Truyền kỳ tân phả, coi như nối tiếp sách Truyền kỳ mạn lục của ông Nguyễn Dữ. Sách viết bằng chữ nho, trong có 7 truyện:
Vân các thần nữ (bà chúa Liễu Hạnh)
Hải khẩu linh từ (nữ thần Chế Thắng)
An ấp liệt nữ (tiểu thiếp Đinh Nho Hàn)
Nghĩa khuyển thập miêu (chó nuôi mèo)
Hoành sơn tiến cục (cờ trên núi Hoành)
Mai huyền (cây mai huyền bí)
Yến anh đối thoại (Yến anh nói chuyện)
Hai truyện cuối trong danh sách trên đã bị thất lạc.
Là một bản diễn nôm của bà Điểm từ tác phẩm cùng tên bằng Hán văn của ông Đặng Trần Côn, người thành Thăng Long. Bản dịch gồm 412 câu theo lối song thất lục bát, trong diễn tả nhiều tâm trạng: hy vọng, buồn bã, giận hờn, tựu chung là nỗi nhớ nhung khắc khoải của một người chinh phụ (vợ có chồng đi lính) đang chờ chồng trở về sum họp.
Bản dịch này thậm chí còn phổ biến hơn bản chính, nên được xem như là một sáng tác của bà Điểm, từ đó được dịch ra tiếng Pháp bởi những nhà văn trong nhóm Mercure de France, với tên Les Plaintes d’une Chinh phu (1939). Sau này giáo sư Takeuchi dịch ra tiếng Nhật, với tên Seifu Ginkyoku.