Anthony Van Dyck (1599-1641)
Sinh năm 1599 tại Antwerp (nay thuộc nước Bỉ), Van Dyck từ thời niên thiếu đã nổi bật với phong cách hào hoa trong số các học trò của Peter Paul Rubens (1577-1640). Anh thường vẽ rất nhanh và sáng tác đồng thời nhiều tác phẩm. Khi sang thăm Italia năm 1621, chàng trai xứ Flamand đã khám phá ra màu giác quan của danh hoạ Titian, phong cách vẽ riêng của một hoạ sĩ, và bắt đầu đặc biệt chú ý đến sắc thái tâm lý.
Mặc dầu những bức chân dung và những chủ đề tôn giáo đầu tiên đều thấm đượm vẻ ôn hoà và nhạy cảm chỉ thuộc về Van Dyck, tài năng trẻ này đã hấp thụ và làm cho nghệ thuật của những hoạ sĩ tiền bối trở nên phong phú và tao nhã hơn. Nhìn từ góc độ nghệ thuật, chàng học trò thông minh của Rubens và người kế tục Titian đã ghi dấu vào cội nguồn lịch sử của hội hoạ châu Âu.
Sau khi phục vụ hoàng gia Áo, Van Dyck lần thứ hai đến nước Anh năm 1632, trở thành hoạ sĩ của ông vua bé nhỏ Charles I và làm cho hội hoạ Anh thay đổi như chỉ trong một đêm.
Bằng việc du nhập vào nước Anh lý thuyết động lực không gian của xu hướng nghệ thuật Baroque đồ sộ lộng lẫy [1] và kỹ thuật sơn Vơnizơ để cải thiện màu sắc [2], Van Dyck ngay lập tức trở thành nghệ sĩ tiên tiến nhất xứ sương mù. Ông đã vẽ bằng cái trở thành bút pháp tổng quát và bởi vậy trở thành người sáng lập trường phái mỹ thuật Anh trong nghệ thuật chân dung. Với chuỗi ngọc trai, những phụ nữ trong tranh ông trở nên yêu kiều hơn trên nền vải như thể họ đang tham gia buổi ca vũ nhạc, trong khi nam giới, mặc lụa màu đỏ hồng nhung và màu xanh da trời, trông nổi bật khi cầm cung trên tay.
Phần lớn tính hiệu quả của những chân dung này phụ thuộc vào cách áp dụng nhiều lớp sơn với phong cách riêng xuất sắc tôn lên vẻ tự tin hoàn toàn của nhân vật. Khi bạn xem những bức chân dung tự nhiên sống động của ông đặt cạnh những tác phẩm cứng nhắc mang tính thầy tu của những bậc tiền bối nước Anh trước đó, bạn sẽ cảm nhận được phong cách sân khấu của Van Dyck trông rất ấn tượng.
Ông đã truyền vào những bức chân dung vẽ nhà vua, hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử sự thân mật gần gũi chưa từng bao giờ có trong nghệ thuật vẽ chân dung của nước Anh. Gần gũi nhưng không phân tích tính cách. Những gì triều đình Anh thời kỳ năm 1630 yêu cầu là người hoạ sĩ thể hiện được vẻ ngoài sáng chói, không phải là độ sâu tâm lý - và Van Dyck đã đem đến cho họ điều ấy. Chẳng hạn chân dung của hai Quận công John Stuart và Bernard Stuart từng là mẫu mực cho các tư thế trễ nải và thái độ kiêu kỳ của giới quý phái.
Hãy ngắm người em - Quận công Bernard Stuart - bước lên bục với dáng vẻ chải chuốt, tay đeo nhẫn, đôi ủng da hoẵng thanh cao, ngực quay về một phía, đầu ngoảnh về hướng khác với một tay đặt hờ trên gối. Van Dyck đã không thề phải hiện thực khi ông vẽ hai người này, và chắc chắn cảm thấy không hối tiếc khi để họ xuất hiện với dáng vẻ hấp dẫn hơn, phong lưu hơn và quý phái hơn cả con người thực của họ. Nhưng hai nhân vật trẻ tuổi đó là có thật, họ là thân thích của Vua, những người hy sinh trong trận chiến vì sự nghiệp của Hoàng gia. Bởi vậy chúng ta mạo muội cho rằng Quận công Bernard thực sự không mặc chiếc quần ống túm màu xanh bằng lụa với áo gấm thêu kim tuyến và diềm đăng ten, cổ áo viền trau chuốt. Chính Van Dyck nắm lấy thần thái, tạo nên bức tranh Bernard trông cao hơn, dài hơn, tao nhã hơn con người thực của nhân vật. Lưu ý rằng cánh tay trái rất dài và nếu nhân vật rời tay khỏi đầu gối thì nó có thể hầu như là chạm đất.
Hãy nhìn cách Van Dyck kéo dài cánh tay hơn nữa bằng việc cho bàn tay nắm vào cái găng trống rỗng. Người hoạ sĩ đã làm nổi sự tương phản giữa sức nặng của cánh tay với những ngón tay yếu đuối và làn da trẻ trung. Bàn về chân dung với dáng vẻ đường hoàng- ở đây hoạ sĩ đã thay thế hoàn toàn thói kiểu cách bằng sự khám phá tính cách. Cũng như với các hoạ sĩ Ingres và Picasso sau này, đối với Van Dyck, những nhu cầu diễn cảm trong tranh kế tục bổn phận đối với tư liệu thực.
Mức độ sáng tạo riêng của Van Dyck về con người thật của những nhân vật mà chúng ta nhìn thấy trong chân dung là một trong những câu hỏi hấp dẫn. Có thể hình dung khi bắt đầu bức chân dung, ông nghiền ngẫm con người thực và sau đó thể hiện cho đến khi nhân vật của ông trở thành người ông muốn. Bạn không thể đoán được người đàn bà đẹp mê hồn trong bức chân dung Hoàng hậu Henrietta Maria thực ra rất gầy, nhỏ bé, có chiếc răng thỏ và chồng bà ta cũng bé nhỏ hơn phần lớn quý tộc Anh. Trong một bức chân dung khác của Van Dyck vẽ Vua Charles I với vợ, cách Hoàng hậu quay về phía chồng có lẽ thể hiện sự dịu dàng quá mức giữa hai người.
Khi hoạ sĩ đương thời Cornelius Johnson, cũng theo phong cách Flamand, vẽ Sir Thomas Hanmer năm 1631, ông thể hiện một thanh niên lãnh đạm có khuôn mặt thẫn thờ mà điều đặc biệt nhất là vòng cổ viền đăng ten lộng lẫy buông từ cổ ông qua vai. Nhưng 7 năm sau, Van Dyck đã vẽ Hanmer như một cận thần tao nhã đứng thẳng trên phong cảnh nền, tay đeo găng trông rất oai phong. Dù phải chấp nhận sự thật là người thanh niên trong bức tranh đầu đã trưởng thành trong bức thứ 2, Van Dyck thực sự đã nắm bắt được sự pha trộn sắc sảo của nòi giống tốt và trí thông minh cao của Hanmer mà hoạ sĩ Johnson không nhìn thấy. Sự khác nhau giữa 2 bức chân dung cũng giống như khi so sánh ảnh chụp studio thế kỷ 19- cứng nhắc, khuôn mẫu và không sống động- với ảnh hiện đại của Richard Avedon nhằm nói với bạn điều gì đó về tính cách của nhân vật.
Tất nhiên, điều này đã được mong đợi đối với một hoạ sĩ triều đình. Van Dyck được trả tiền để vẽ cho khách hàng của ông trông ổn nhất và ông hoàn thành rất tốt công việc của mình. Những năm tháng ở Italia đã cho ông biết rõ sự phức tạp của các tư thế tự nhiên và những cử chỉ thanh nhã lôi cuốn bố cục tranh của ông, nhưng cũng trang bị cho ông khả năng, khi cần thiết, tìm ra tính người ẩn sau khuôn mặt chính khách thể hiện trước công chúng của hoàng gia hoặc vẻ quý phái xa cách. Và bởi vậy, sau đội hình các triều thần tự tin mặc vải lụa sột soạt và những vẻ đẹp dịu dàng mặc sa tanh, thật là cú sốc khi nhìn thấy vẻ khổ sở trên mặt Philip Herbert, bá tước thứ 4 của Pembroke.
Van Dyck đã hoàn thành một số lượng khổng lồ gồm khoảng 800 bức tranh trước khi ông qua đời khá sớm ở tuổi 42 tại Anh quốc vào năm 1641.
Đông Tỉnh (theo Telegraph tháng 2-2009)