Thực lục về cuộc đấu tranh chống ngoại xâm dưới thời quân Minh cai trị (3)

Năm Giáp Ngọ [1414]

Từ sông Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị ngày nay, quân Minh tiếp tục truy kích ra đến huyện Chính Hoà, phủ Tân Bình [Quảng Bình]. Trong một cuộc hành quân gay go, quân Minh bắt được các tướng lãnh hàng đầu của vua Trùng Quang như Nguyễn Cảnh Dị, Ðặng Dung:

Ngày 17 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 12 [7/2/1914]

Quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ mang quân đến trang Tra Hoàng, huyện Chính Hoà (1), châu Chính Bình; tướng giặc là Hồ Đồng hàng. Nghe tin bọn Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung, Long Hổ Tướng quân nguỵ Lê Thiềm hơn 700 tên chạy đến sách Côn Bồ, Tiêm Man; bọn Phụ tiến binh ngay đến sông La Mông. Phải theo đường núi vin cành lá mà leo lên nên đành bỏ ngựa, tướng sĩ tiếp tục đi theo. Đến sách Côn Bồ, bọn Cảnh Dị đã bỏ trốn; lại truy kích đến sách Tra Bồ Nại, bọn giặc và dân địa phương đều trốn, không biết ở chốn nào, nên làm cuộc lục soát lớn. Vào canh tư, đi trên 20 dặm, nghe tiếng trống điểm canh, Phụ sai Đô Chỉ huy Phương Chính mang quân lẳng lặng đi, đến lúc trời sáng đến phía bắc sông, tại sách Tra Bồ Cán. Giặc lập trại tại bờ phía nam, quan quân vượt sông vây đánh. Giặc chống không nổi, tên bắn liên tiếp trúng, Cảnh Dị bị thương tại sườn, bắt được. Đặng Dung trốn, Phương Chính mang quân truy lùng, bị bắt cùng với em là Đặng Nhuệ. Bắt hết bọn giặc Lê Thiềm, tịch thu ấn nguỵ của Cảnh Dị. Cảnh Dị bị thương nặng, bị róc thịt lấy thủ cấp, áp giải cùng anh em Đặng Dung đến kinh đô; tất cả đều bị xử chém để làm răn. (Minh Thực Lục v. 13, tr. 1727-1728; Thái Tông q. 147, tr. 2a-3b)

Riêng vụ giết Nguyễn Cảnh Dị, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau:

Nguyễn Cảnh Dị và Ðặng Dung bị Trương Phụ nhà Minh bắt. Cảnh Dị mắng ngay vào mặt Phụ: ‒ Tao định giết mày, lại bị mày bắt!

Rồi chửi Phụ luôn miệng. Phụ giận lắm, giết Dị rồi lấy gan ăn (2).

Trương Phụ cho hành quân tiếp tại vùng Nam Linh [Quảng Trị], bắt được tướng cầm đầu Nguyễn Suý; cùng gia quyến của vua Trùng Quang, Nguyễn Suý và Ðặng Dung:

Ngày 19 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 12 [9/2/1414]

Ngày hôm nay quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ sai Chỉ huy Tiết Tụ truy lùng đầu sỏ giặc Nguyễn Suý tại Nam Linh (3), bắt được. Trước đó điệp báo cho biết Suý trốn tại Xiêm Man, Phụ sai bọn Đô đốc Chu Quảng mang binh truy bắt. Quảng hành quân qua lại vùng Xiêm Man, vào các rừng núi nơi quan ải bắt được gia thuộc của Suý, cùng gia thuộc đồng đảng Đặng Dung, Trần Quý Khoách. Bọn Suý chạy trốn sang châu Nam Linh thuộc Thổ quan Nguyễn Trà Vựng, lúc này quân đi thuyền của Tụ ập tới bắt được, bèn giết Trà Vựng để làm răn. (Minh Thực lục v. 13, tr. 1728-1729; Thái Tông q. 147, tr. 2b-3a)

Lại tiếp tục hành quân, Trương Phụ sai Ðô Chỉ huy Sư Hữu truy bắt vua Trùng Quang cùng vợ con tại Lão Qua. Riêng em nhà vua là Trần Quý Cửu trốn đến châu Tĩnh An [Quảng Ninh] để mưu đồ tiếp. Bố chánh Hoàng Phúc khá lo lắng về hoạt động này (4); nhưng cuối cùng cũng bị bắt:

Ngày 10 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 12 [31/3/1414]

Đô Chỉ huy Sư Hữu bắt được đầu đảng giặc, Trần Quý Khoách, tại Lão Qua. Trước đó quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ bắt đảng giặc tại La Nhân, sách Tra Bồ cán; Quý Khoách chạy về núi Hàng Bài, Nghệ An, bèn sai Sư Hữu đến bắt. Quý Khoách thế cùng chạy sang Lão Qua. Hữu mang quân truy bắt, Lão Qua xin tự bắt Quý Khoách để dâng hiến; Phụ nhân đó sai người mang hịch đến đòi, vẫn sai Hữu mang binh vào lãnh thổ Lão Qua. Hữu tiến qua 3 quan ải tại Lão Qua, đến Kim Lăng Cá Man, chúng bỏ đi để lại Quý Khoách cùng vợ con tại sách Cập Mông, đất Nam Ma, quan quân bắt trói mang về. Em Quý Khoách là Quý Cữu xưng nguỵ Tướng quốc Hoan quốc vương gây loạn tại châu Tĩnh An, lúc này nghe tin Quý Khoách đã bị bắt, bèn mang thuyền chạy ra biển, bị bọn Chỉ huy vệ Trấn Di là Lý Giám đánh đuổi đến cửa biển Đa Ngư (5), Cữu và em là Công chúa nguỵ đều bị bắt; đảng giặc được bình định. (Minh Thực Lục v. 13, tr.1737-1738; Thái Tông q. 149, tr. 2a-2b)

Lúc này tại miền Bắc, Nguyễn Tông Biệt chiêu tập hơn 1000 người cử sự tại Hạ Hồng [Hải Hưng], bọn Trần Lỗi tôn Tông Biệt làm minh chủ (6).

Chú thích

1. Chính Hoà: theo Đ.N.V.N.Q.C.Ð., sđd trang 158, huyện Chính Hoà tương đương với huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình ngày nay.

2. Toàn Thư, Sđd tập 2, trang 234.

3. Theo Đ.N.V.N.Q.C. Ð., sđd, châu Nam Linh đời Minh tức huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị ngày nay.

4. Minh Nghiên Cứu, sđd, trang 90.

5. Ða Ngư: theo Ð.N.V.N.Q.C.Ð., sđd, trang 134, Ða Ngư tức cửa biển Văn Úc, Hải Phòng.

6. Minh Nghiên Cứu, Sđd trang 90.

Năm Ất Mùi [1415]

Sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa của vua Trùng Quang, Trương Phụ và Mộc Thạnh mang quân về nước; rồi nhà Minh lại cử Trương Phụ sang nước ta lần thứ tư:

Ngày 1 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [9/5/1415]

Mệnh Anh quốc công Trương Phụ đeo ấn Chinh Di Tướng quân thống lãnh quan binh trấn Giao Chỉ. (Minh Thực Lục v. 13, tr.1843; Thái Tông q. 163, tr.1b)

Vào năm này tại huyện Lỗi Giang, Thanh Hoá có Trần Nguyệt Hồ tiếp tục nổi dậy tự xưng là Nguyệt Hồ Vương; quân Minh cho truy kích đến tận Ninh Bình rồi bắt được. Ngoài ra đồ đảng Quách Nguyên Khánh cũng bị quân Minh giết:

Ngày 1 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [2/11/1415]

Tên phản loạn Trần Nguyệt Hồ tại Giao Chỉ bị giết. Trước đó Nguyệt Hồ tụ tập dân địa phương tại Lỗi Giang, Thanh Hoá làm loạn, tự xưng Vương Nguyệt Hồ. Gặp lúc Anh quốc công Trương Phụ tới Giao Chỉ tiến binh tiễu trừ. Giặc thua chạy, bèn truy kích đến trấn Đại Quan, huyện Xích Thổ (1), bắt được Nguyệt Hồ; bèn giải về kinh sư tru lục. Bọn đồ đảng Quách Nguyên Khánh tiếp tục bị giết, bọn giặc còn lại được bình định. (Minh Thực Lục v. 13, tr. 1881; Thái Tông q. 169, tr.1a)

Chú thích

1. Xích Thố: huyện Xích Thố tại khoảng huyện Gia Viễn và Lạc Thuỷ tỉnh Ninh Bình ngày nay (theo Ð.N.V.N.Q.C.Ð., sđd. trang 140).

Năm Bính Thân [1416]

Lúc này tình hình có dấu hiệu ổn định, nên nhà Minh cho mở lại các hầm mỏ để vơ vét:

Ngày 10 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 14 [2/8/1416]

Cho đặt lại 2 cục mỏ vàng tại trấn Vọng Giang, Diễn Châu phủ Nghệ An, cùng trấn Lâm An. Trước đây dân Man không yên nên hai cơ sở này đóng không hoạt động, nay cho thiết lập lại. (Minh Thực Lục v. 13, tr. 1939; Thái Tông q. 178, tr. 2a)

Tháng 9, năm Bính Thân, quân lính tại huyện Tân An nổi lên, nhưng Trương Phụ dẹp được (1).

Bấy giờ nhà Minh ưa dùng hoạn quan đi các nơi thanh sát tình hình, quyền uy rất lớn. Viên Nội quan Mã Kỳ được lệnh dò xét Trương Phụ, mật tâu rằng Tổng binh Trương Phụ ở Giao Chỉ chọn những thổ nhân mạnh khoẻ can đảm làm vi tử thủ (2), do đó vua Minh nghi ngờ gọi về gấp; kể từ đó vĩnh viễn Phụ không còn trở lại nước ta nữa:

Ngày 19 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 14 [7/12/1416]

Sắc dụ quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ theo đường dịch trạm về kinh gấp. (Minh Thực Lục v. 13, tr.1966; Thái Tổ q. 182, tr. 2b.)

Chú thích

1. Toàn Thư, sđd, tập 2, trang 238.

2. Vi tử thủ: lính cận vệ.

Năm Ðinh Dậu [1417]

Lúc này quan lại nhà Minh tham lam nhũng nhiễu không cùng, nội quan Mã Kỳ lại càng làm nhiều việc phi pháp, bắt dân nạp châu báu quá nhiều, dân không sao kham được sự khổ sở, nên lòng người náo động vùng lên. Phong thành hầu Lý Bân được chỉ định thay thế Trương Phụ, phải đối đầu với nhiều cuộc nổi dậy:

Tại huyện Lục Na, phủ Lạng giang [Lục Ngạn, Hà Bắc], Nguyễn Trinh tụ tập dân chúng nổi lên. Quân Minh bèn khủng bố bắt giết để cảnh cáo (1)

Tại châu Thuận [Quảng Trị] và châu Nam Linh [Quảng Bình] có cuộc nổi dậy ở tầm mức quy mô lớn gồm 2 tỉnh, thành phần gồm dân chúng và quan quân địa phương, Lý Bân phải điều động các vệ từ phủ Giao châu [Hà Nội] vào để đánh dẹp, tuy vậy đám còn lại như Nguyễn Nghĩ, Trần Bá Luật vẫn tiếp tục hoạt động:

Ngày 13 tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 15 [26/7/1417]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân tâu:

“Tại Giao Chỉ, người châu Thuận (2) có bọn Lê Hạch, Phan Cường, cùng bọn thổ quan Đồng tri Trần Khả Luận, Phán quan Nguyễn Chiêu, Chủ bạ Phạm Mã Hoãn, Thiên hộ Trần Não, Bách hộ Trần Ngô Sài; tại châu Nam Linh (3) có Phán quan Nguyễn Nghĩ, Tri huyện Tả Bình Phạm Bá Cao, Huyện thừa Vũ Vạn, Bách hộ Trần Ba Luật làm loạn. Chúng đốt thành quách nhà cửa hai châu, giết quan lại, tiếm xưng danh hiệu, tụ tập đồng đảng hơn 1000 tên. Bèn ra lệnh ngay cho Đô đốc Chu Quảng mang quân đánh dẹp, cùng Chỉ huy Giao Châu Trung vệ Hoàng Chấn, Chỉ huy Đồng tri Giao Châu Hữu vệ Đàm Công Chính, Chỉ huy Thiêm sự vệ Thuận Hoá Ngô Quỳ, Chỉ huy Thiêm sự vệ Tân Bình Phan Cần cầm quân hội tiễu; giết Lê Hạch cùng đồ đảng hơn 500 người tại trận; bắt sống Phan Cường, Trần khả Luận, Nguyễn Chiêu, Phạm Mã Hoãn, Phạm Bá Cao, Vũ Vạn; chiếu theo luật tất cả đều bị tru lục. Bọn Nguyễn Nghĩ, Trần Ba Luật cùng đồng bọn còn sót lại bỏ trốn; đốc suất các tướng tiếp tục truy bổ. Thiên tử khen và sắc dụ Bân hãy trình bày đầy đủ chi tiết công trạng mỗi người; cùng hạ lệnh từ nay các quan và dân bản xứ ra sức lập công cũng được trình lên ngay để thăng thưởng; như trong vụ nổi loạn của tên Hạch, các thổ quan châu Thuận như Chỉ huy Đồng tri Đoàn Công Đinh, Trần Tư Tề đều chết, Công Đinh, Tư Tề người châu Nam Sách, Giao Chỉ, theo Vương sư tòng chinh bắt cha con Lê Quý Ly, dẹp Giản Định và Trần Quý Khoách; Công Đinh làm quan thăng đến chức Giao Châu Tả Vệ Chỉ huy Đồng tri, Tư Tề chức Giao Châu Hữu vệ Chỉ huy Đồng tri; cả hai coi thành châu Thuận. Giặc nổi lên bất ngờ, bọn Công Đinh ra sức đánh, bị chết. (Minh Thực Lục v. 13, tr. 2011-2013; Thái Tông q. 190, tr. 1b-2a)

Tiếp đến Lý Bân sai Ðô đốc Chu Quảng đánh dẹp đảng nổi dậy của Dương Tiến Giang tại sách Bách Trú:

Ngày 1 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 15 [9/11/1417]

Tháng này quan Tổng binh Giao Chỉ Phong
thành hầu Lý Bân sai Đô chỉ huy Chu Quảng mang quân đánh dẹp đầu đảng giặc Dương Tiến Giang. Quảng đánh phá các trại như Bắc Trú, bắt bọn Tiến Giang chém để làm răn. Số giặc còn lại tan rã. (Minh Thực Lục v. 13,tr. 2035, Thái Tông q. 193, tr. 1a)

Chú thích

1. Minh Nghiên Cứu, Sđd trang 91.

2. Châu Thuận thời Minh cai trị thuộc phủ Thuận Hoá; theo Đ.N.V.N.Q.C.Ð., sđd, hiện nay thuộc vùng đất tỉnh Quảng Trị, từ cửa Việt trở vào.

3. Châu Nam Linh thời Minh cai trị thuộc phủ Tân Bình, theo Đ.N.V.N.Q.C.Ð., sđd, hiện nay thuộc phía bắc tỉnh Quảng Bình

Năm Mậu Tuất [1418]

Ðến đây lịch sử ghi một dấu ấn quan trọng, đó là cuộc khởi nghĩa của Bình định vương Lê Lợi. Trước khi đi sâu vào vấn đề, cần nêu lên điểm khác biệt giữa sử Trung Quốc và sử nước ta về hành trạng vua Lê Lợi, giai đoạn trước khi khởi nghĩa.

Sử nước ta, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau:

“Bấy giờ, họ Hồ cướp ngôi nhà Trần, rồi quân Minh xâm lược nước Nam, chia cắt nước ta thành quận huyện, bắt dân ta làm tôi tớ, luật pháp phiền hà khắc nghiệt, thuế má lao dịch nặng nề. Đối với những người hào kiệt trong nước, chúng phần nhiều vờ trao quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc. Vua hiểu biết hơn hẳn mọi người, sáng suốt và cương quyết, không bị quan tước dụ dỗ, không bị uy thế khuất phục. Người Minh đã dùng trăm phương ngàn kế xảo trá, vẫn không dụ được vua.

Trước đó bọn Đặng Tất, Nguyễn Suý ở châu Hoá cùng lập con cháu nhà Trần là Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua. Nhưng vua thấy họ yếu hèn, lại say đắm tửu sắc, biết là chẳng làm nên chuyện, mới ẩn náu nơi núi rừng, dụng tâm nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân chúng lưu ly, hăng hái dấy binh, mong trừ hoạn lớn.” (1)

Sử Trung Quốc chép khác, xác nhận rằng trước khi nổi dậy, Lê Lợi từng giữ chức Kim Ngô Tướng Quân cho vua Trùng Quang, sau đó hàng nhà Minh giữ chức Tuần kiểm:

Ngày 3 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 16 [8/2/1418]

Viên Thổ quan Tuần kiểm Lê Lợi tại huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hoá làm phản; quan Tổng binh Giao Chỉ Phong thành hầu Lý Bân sai bọn Đô đốc Chu Quảng chinh tiễu. Trước đây Trần Quý Khoách làm phản, Lợi sung chức Kim Ngô Tướng quân nguỵ; rồi bó thân xin hàng, được ban chức Tuần kiểm, nhưng vẫn ôm lòng phản trắc. Nay tiếm xưng là Bình định vương, cho em Lê Thạch làm Tướng quốc nguỵ, Đoàn Mãng làm Đô đốc; tụ tập bọn giặc là Phạm Liễu, Phạm Yến mang binh cướp phá. Quân Quảng tới chém hơn 60 thủ cấp, bắt sống bọn giặc Phạm Yến hơn 100 người, bọn Lợi bỏ trốn. Nay Bân tâu xin đem bọn Yến tru lục tại Giao Chỉ để răn đe dân chúng. [Thiên-tử] chấp thuận. (Minh Thực Lục v. 14, tr. 2054; Thái Tông q. 196, tr. 1b)

Qua những điểm tương phản, câu hỏi cần đặt ra là: Trước khi khởi nghĩa vua Lê Lợi có hợp tác với nhà hậu Trần và nhà Minh hay không? Nhắm tìm hiểu rộng thêm, hãy tham khảo Lam Sơn Thực Lục, có đoạn chép:

“…Tuy giặc có khéo léo, khôn ngoan nhiều cách, mà tráng chí của nhà vua, trước sau chẳng chịu chùng. Thế nhưng trong lúc thế giặc còn mạnh, chưa dễ đánh được nào. Nhà vua thường hậu lễ nhún lời, đem nhiều vàng bạc đút lót cho các tướng giặc là bọn Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ; mong thư bớt lòng hãm hại nhà vua, để nhà vua đợi thời lừa dịp.

Đảng của giặc là Lương Nhữ Hốt bàn với bọn giặc, nói rằng:

‒ Chúa Lam Sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân lính rất hậu, chí nó chẳng nhỏ. Nếu thuồng luồng gặp được mây mưa, thì tất không phải là vật ở trong ao đâu. Nên sớm trừ đi, để sau sinh vạ.

Năm Mậu Tuất (1418) khi ấy nhà vua khởi quân tại Lam Sơn.” (2)

Lam Sơn Thực Lục do khai quốc công thần Nguyễn Trãi soạn, vua Lê Lợi trực tiếp đề tựa; đây là tư liệu gốc trước mọi bộ sử nước ta. Căn cứ vào Lam Sơn Thực Lục, người đọc sử có thể có những nghi vấn như sau: ‒ Nếu là một thường dân, như Đại Việt Toàn Thư chép, làm sao Bình định vương Lê Lợi có đủ tư cách để liên lạc với các quan lại cao cấp của nhà Minh như bọn Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ để đút lót? ‒ Hơn nữa chỉ là thường dân thôi, làm sao có thể “chiêu vong, nạp bạn [dung nạp người làm phản], đãi quân lính rất hậu” như lời Lương Nhữ Hốt tố cáo với bọn giặc.

Tại một văn kiện khác “Chiếu tha những người có tội tại Giao Chỉ” do vua Tuyên Tông nhà Minh ban hành được ghi trong Minh Thực Lục và cũng được Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại. Chúng tôi dò lại Toàn Thư cả phần nguyên văn chữ Nho và bản dịch của Nxb Khoa Học Xã Hội (3) thấy thiếu một đoạn quan trọng. Đoạn văn này xác nhận Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật đã từng làm việc cho nhà Minh; chắc Sử thần Ngô Sĩ Liên soạn Toàn Thư, muốn giấu việc này nên cố tình lược bỏ đi. Nhắm làm sáng tỏ vấn đề, xin chép nguyên văn và phần dịch đoạn văn mà Ngô Sĩ Liên lược bỏ:

… Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật, vốn đã quy phụ triều đình, từng được bổ nhiệm sử dụng, rồi suy nghĩ lệch lạc, để đến nổi sai trái như vậy. Nay đặc biệt mở con đường đổi mới, nếu thành thực hối cải, trở lại theo điều thiện, giữ tiết bề tôi thì được khoan thứ, vẫn được trao quan chức. Những kẻ bị Lê Lợi bức hiếp theo nghịch, cùng những dư đảng của Trịnh Công Chứng trốn tránh chưa xuất hiện, nay có thể đích thân ra qui thuận, hoặc đến quan sở tại đầu thú cũng đều được tha, quan sẽ trở lại nguyên chức, quân trở lại nguyên đơn vị, dân trở lại với nghề cũ. Sau khi chiếu thư ban ra, như bọn Lê Lợi cùng những kẻ bị cưỡng bách, chấp mê không hối tội, vẫn chống mệnh như cũ, thì quân Thiên triều gia tăng thảo phạt, hối cũng không kịp nữa. (Kỳ Lê Lợi, Phan Liêu, Lộ Văn Luật đẳng, bản giai quy tâm triều đình, tằng kinh nhiệm dụng, ngẩu quai nhất niệm, thất ngộ chí thử. Kim đặc khai kỳ tự tân chi lộ, thành năng hối quá tòng thiện, phục thủ thần tiết, tất hựu kỳ tội, nhưng thụ dĩ quan. Cập hữu bị Lê Lợi đẳng bách hiếp tòng nghịch, tịnh Trịnh Công Chứng đẳng dư đảng đào tỵ vị xuất giả, kim năng đình thân lai qui, hoặc phó sở tại quan ty tự thú, quan phục nguyên chức,quân phục nguyên ngũ, dân phục nguyên nghiệp. Chiếu thư đáo hậu như Lê Lợi đẳng cập hiếp tòng chi đồ, chấp mê bất thuân, nhưng tiền cự mệnh, thiên thảo tất gia, hậu hối vô cập. 其 黎 利 潘 僚 路 文 律 等, 本 皆 歸 心 朝 廷, 曾 經 任 用, 偶 乖 一 念, 失 誤 至 此. 今 特 開 其 自 新 之 路, 誠 能 悔 過 從 善, 復 守 臣 節, 悉 宥 其 罪, 仍 授 以 官. 及 有 被 黎 利 等 迫 脅 從 逆 并 鄭 公 證 等 餘 黨 逃 避 未 出 者, 今 能 挺 身 來 歸, 或 赴 所 在 官 司 自 首 一 體 赦 宥, 官 復 原 職, 軍 復 原 伍, 民 復 原 業. 詔 書 到 後 如 黎 利 等, 及 脅 從 之 徒 執 迷 不 悛, 仍 前 拒 命, 天 討 必 加 後 悔 無 及.)

Hãy hiểu các sự kiện nêu trên vào đúng thời điểm lịch sử xẩy ra. Sau khi Minh Thành Tổ nuốt lời hứa không lập vua nhà Trần, trực tiếp cai trị hà khắc, thì các cuộc khởi nghĩa nổi lên khắp nước ta. Trước tình huống đó, vua nhà Minh đành phải ra chiếu ân xá:

Ngày 24 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 9 [18/3/1411]

Chiếu dụ Giao-Chỉ rằng: “Trẫm nhận mệnh trời, cai trị muôn phương, vĩnh viễn che chở soi xét tình cảnh kẻ dưới; lòng đầy sự thương yêu, sớm chiều canh cánh. Nghĩ rằng Giao-chỉ đã được sáp nhập vào bản đồ, nhưng suốt năm chưa được yên ổn nghỉ ngơi, sau buổi khốn khó giặc giã bèn ban ân khoan hồng như sau: Kể từ ngày 24 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 9 trở về trước, những người Giao Chỉ tụ tập trong núi rừng đều được xá tội, quân cho trở lại nguyên đơn vị, dân trở lại với nghề cũ, quan lại quân dân phạm tội chưa bị phát giác cũng được tha…” (4)

Chiếu thư ra rồi, có nhiều nhóm lợi dụng thời cơ xin hàng để nghĩ xả hơi, rồi lại tiếp tục nổi dậy. Tình trang như vậy, vua nhà Minh đành ra chỉ dụ ân xá cho một vài nhóm thuộc loại “hàng rồi phản, phản rồi xin hàng”: Ngày 19 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 11 [18/3/1413]

Sắc dụ quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ, Kiềm quốc công Mộc Thạnh rằng trong những số đầu mục tại Giao Chỉ có những kẻ đã hàng rồi phản, phản rồi xin hàng. Hãy chọn trong số đó một, hai người, tuyên bố ân mệnh của Trẫm, tha hết tội, lượng tài cao thấp giao trước chức quan, ngõ hầu yên lòng dân chúng. (5)

Cũng vào năm này [1413] thế lực nhà hậu Trần gần như sụp đổ, Trần Quý Khoách phải chạy vào Quảng Trị; giao Nghệ An cho Phan Quý Hựu giữ; rồi cha con Phan Quý Hựu, Phan Liêu đầu hàng giặc. Trong hoàn cảnh đó, nếu Lê Lợi tại Thanh Hoá có làm quan cho Trần Quý Khoách thì cũng bị đứt liên lạc và ông ta cũng biết rằng lực lượng Trần Quý Khoách không thể cứu vãn được tình hình.

Được biết trong 10 năm kháng chiến, Bình định vương Lê Lợi mấy lần tạm hoà với giặc, còn sử nhà Minh thì chép là “hàng”. Bởi vậy nếu từng là Kim Ngô Tướng quân của Trần Quý Khoách, ở vào hoàn cảnh nhà hậu Trần trên đường sụp đổ; một người quyền biến như Lê Lợi tất không chịu bất lực buông tay, đành tạm hàng với quân Minh để giữ gìn thực lực. Hơn nữa với chức Tuần kiểm, trông coi một tổ chức bán quân sự, dưới quyền phần lớn là bộ hạ cũ, ít bị kiểm soát, Lê Lợi có cớ chiêu dụ người lưu vong, dung nạp kẻ phản loạn như Lam Sơn Thực Lục chép.

Cũng căn cứ vào Lam Sơn Thực Lục:

Lương Nhữ Hốt báo động với quân Minh rằng “Chúa Lam Sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân lính rất hậu. Nếu con thuồng luồng gặp được mây mưa thì tất không phải là vật ở trong ao đâu; nên sớm trừ đi để lâu sanh hoạ” (6).

Nhữ Hốt là người Việt theo giặc, chắc rành về người mình hơn; lời báo động của y đã trở thành hiện thực; con “thuồng luồng” Lê Lợi sớm rời ao tù “Tuần kiểm” để cất quân khởi nghĩa; rồi “thuồng luồng” thành công biến thành “rồng”, một biểu tượng được dành riêng cho ngôi vua.

Nay hãy thuật về cảnh Bình định vương Lê Lợi trải qua trong năm đầu khởi nghĩa:

Mã Kỳ, nội quan (8) nhà Minh, được tin Bình Định vương dấy quân ở Lam Sơn (9), bèn kéo quân đến bức bách. Vương lui đóng ở Lạc Thuỷ (10), đặt quân phục sẵn để đợi giặc. Khi Mã Kỳ đến, quân phục đổ ra đánh. Các tướng Lê Thạch, Lê Ngân và Lê Lý đua nhau xung phong, phá trận địch: chém hơn nghìn thủ cấp, bắt được quân nhu và khí giới kể đến hàng nghìn.

Cách vài ngày sau, tên Ái (không rõ họ) phụ đạo ở sách Nguyệt Ấn (11), dắt quân Minh đi đường tắt đến đánh úp: quân của Vương bị vỡ,
chạy tan tác; vợ và con gái của Vương bị địch bắt. Vương thu thập số quân tan vỡ còn sót lại, rồi cùng với các tướng Đinh Lễ, Đỗ Bí và Lê Xí lặng lẽ rút vào ẩn náu ở núi Chí Linh (12). (Cương Mục, sđd, trang 353)

Việc con gái bị quân Minh bắt, chính vua Lê Lợi (sau khi lên ngôi) đã trình bày với vua Tuyên Tông nhà Minh, trong tờ tâu có đoạn như sau:

Ngày 11 tháng 2 năm Tuyên Đức thứ 4 [15/3/1429]

“.. Nhân Thần có chút tình riêng: thần trước đây bị quan quân xua đuổi, trong lúc thảng thốt để mất con gái nhỏ mới 9 tuổi. Dò la được biết Nội quan Mã Kỳ mang về, tiến dâng làm quan nô tỳ. Thần tội to như gò núi đã được tha, nghĩ đến gia đình chỉ mong được đoàn tụ, xin được chiếu chỉ tha cho về để được vẹn tình cha con, Thần đáng ghi khắc vào tâm cốt, cảm ơn không bao giờ quên.” (Minh Thực Lục v. 18, t. 1218-1219; Tuyên Tông q. 51, t. 3b-4a).

Vua Tuyên Tông tỏ vẻ ân cần, trả lời rằng:

Ngày 28 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ 4 [1/5/1429]

“...Riêng dụ ngươi về việc ngươi tâu rằng có con 9 tuổi bị Mã Kỳ thu dưỡng đem về kinh sư, muốn được đoàn tụ. Nghe việc này động lòng trắc ẩn, Trẫm là cha mẹ của thiên hạ lại nỡ để cho một trẻ nhỏ không được gần người thân ư! Nên đã ra lệnh tìm hỏi ngay việc này. Nhưng con gái ngươi vì không hợp thuỷ thổ, nên bị bênh mất đã lâu. Tình thương yêu cha con người người giống nhau, nhưng phần số mỗi người thì đã định; bảo riêng để ngươi biết. Nay ban cho Lý Kỳ, Vĩnh Đạt, Thông tiền phí tổn đi đường; Sứ giả Hà Lật được ban y phục, tiền giấy, cho đi theo cùng Kỳ.” (Minh Thực Lục v 18, tr. 1258-1260; Tuyên Tông q. 52, tr. 10b-11b)

— Tháng 9, viên Tổng binh nhà Minh Lý Bân đem quân tới lùng sục. Vua đặt quân mai phục tại Mường Một (13), dùng tên thuốc độc bắn chết quân địch quá nửa; Bân thua rút quân về (14)

Vào năm này tại miền Bắc, viên quan địa phương thuộc dân tộc thiểu số là Xa Miên nổi dậy tại huyện Tứ Mang [Sơn La]; giết chết quân Minh rất nhiều, trong đó có viên Ðô chỉ huy người Việt tên là Trần Nhữ Thạch:

Ngày 20 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [27/3/1418]

Trước đây viên cựu Thổ quan Tri huyện Tứ Mang, châu Gia Hưng là Xa Miên, có con Xa Tam làm phản, giết bọn Tri huyện lưu động Âu Dương Trí. Quan Tổng binh Phong thành hầu Lý Bân sai Đô đốc Đồng tri Phương Chính mang binh thảo phạt. Giặc cậy đông cự địch, các viên Thổ quan Đô Chỉ huy Trần Nhữ Thạch, Thiên hộ Chu Đa Bồ tử trận. Quan quân ra sức đánh bại giặc, bắt người em là Xa Đạo giết chết. Bọn Xa Tam trốn, nhưng núi rừng hiểm trở chướng lệ mới phát; quan quân lục soát không bắt được, bèn mang quân trở về và sai người chiêu dụ. Bân báo lên và xin thưởng tuất bọn Nhữ Thạch để khuyến khích quân sĩ. Được chấp nhận.

Thạch người Nam Sách, trước kia là quan nhỏ của họ Trần. Khi Vương sư chinh phạt Nam phương, đầu tiên đến quy phụ; đánh giặc, chiêu hàng có nhiều thành tích, thăng quan lên đến chức Đô Chỉ huy Thiêm sự. Thảo phạt giặc Xa Tam, thâm nhập trận, trúng tên ngã ngựa bị giết. Đa Bồ người huyện Đông Ngàn, phủ Bắc Giang; lập quân công được chức quan, cùng Nhữ Thạch phấn dõng giết giặc, bị thương chết. Thiên tử mệnh bộ Lễ cùng quan Hành nhân ban tế và cho lụa vải; quan sở tại tạo phần mộ. (Minh Thực Lục v. 14, tr. 2063; Thái Tông q. 179, tr. 2a)

Chú thích

1. Toàn Thư, Sđd, tập 2, trang 240.

2. Lam Sơn Thực Lục. Nguyên tác: Nguyễn Trãi. Vua Lê Lợi đề tựa. Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1958, quyển 1, trang 9.

3. Toàn Thư, Sđd tập 2, trang 256.

4. Minh Thực Lục, Sđd, quyển 113, trang 1443.

5. Minh Thực Lục, Sđd, quyển 145, trang 1717.

6. Lam Sơn Thực Lục, Sđd, trang 9.

8. Nội quan: tức hoạn quan.

9. Lam Sơn: nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá.

10. Lạc Thuỷ: người dịch Toàn Thư đoán địa điểm này thuộc thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn, Thanh Hoá.

11. Sách Nguyệt Ấn: nay thuộc huyện Thiệu Hoá, Thanh Hoá.

12. Núi Chí Linh: tức núi Pù Rinh, thuộc xã Giao An, huyện Lang Chánh, Thanh Hoá ngày nay.

13. Mường Một: Theo Toàn Thư sau là xã Bắt Mọt, thuộc huyện Thường Xuân, Thanh Hoá ngày nay.

14. Toàn Thư, sđd. trang 241.