Trung Quốc giải quyết nan đề Tôn giáo với Chủ nghĩa xã hội như thế nào?

Tính quần chúng nghĩa là nói người đông. Trên thế giới “trong 5 người thì có 4 theo tôn giáo”, vậy Trung Quốc có bao nhiêu người tin tôn giáo? Bạn hỏi tôi câu này, tôi chỉ có thể dẫn lời Thủ tướng Chu Ân Lai nói “đại để có khoảng hơn 100 triệu người”.

“Có phải sau này khi Đạt-lai chết đi rồi thì ta vẫn phải quản lý tôn giáo (tức Phật giáo ở Tây Tạng)?” Dĩ nhiên phải quản lý chứ. Cục Sự vụ tôn giáo phải quản lý, chính quyền trung ương phải quản lý. Phải theo đúng nghi thức tôn giáo, định chế lịch sử để chọn ra ba Linh đồng-ứng viên, báo cáo Chính phủ trung ương duyệt, tổ chức gắp thăm chọn lấy một Linh đồng làm Đạt-lai cho Phật Giáo Tây Tạng. Các điều văn quy chế đó dùng hình thức luật pháp xác nhận quyền chủ đạo của chính phủ trung ương trên vấn đề Đạt-lai chuyển thế.

Quốc hội Mỹ đã tặng cho Đạt-lai huy chương Vàng gì gì đó, tôi cho rằng đây là một trò hề. Lâu nay Đạt-lai là kẻ lưu vong chính trị tiến hành hoạt động chia cắt tổ quốc, diễn vở kịch chia rẽ Trung Quốc, rêu rao “Tây Tạng độc lập”. Ông ta thiếu lực lượng bèn xin được một huy chương vàng của người phương Tây để tăng thêm sức mạnh cho mình.

Sự va chạm giữa Trung Quốc với Vatican đã có lịch sử hơn nửa thế kỷ. Hồi Trung Quốc mới giải phóng, Vatican đã xúi giục tín đồ của họ ở Trung Quốc chống lại Đảng Cộng sản, chống Trung Quốc mới XHCN, bảo các tín đồ lựa chọn giữa Đảng và đạo, “Có đạo thì không có đảng, có đảng thì không có đạo”.

Các chính khách Mỹ dùng cách xào xáo vấn đề tôn giáo để tranh thủ tỷ lệ ủng hộ của dân ý nhằm đem lại tia hy vọng cho giấc mộng trăm năm ở Trung Quốc, cũng như sự khác biệt về định nghĩa tôn giáo giữa Trung Quốc với Mỹ đã làm cho vấn đề tôn giáo đi ra khỏi kênh ngoại giao truyền thống, trở thành một trở ngại có tính cơ cấu trong mối quan hệ Trung Quốc-Mỹ.

Chúng ta cũng rất đau đầu trước tình trạng thâm nhập của Ki-tô Giáo Hàn Quốc. Mấy nghìn nhà truyền giáo đi một mạch từ đông bắc Trung Quốc tới Quảng Châu, truyền giáo khắp nơi. Khi vấn đề bất công xã hội trở thành vấn đề nổi bật thì nông dân và giới trí thức Trung Quốc hoạt động sôi nổi hẳn lên. Nếu lợi dụng mồi lửa Ki-tô Giáo để tiến hành thâm nhập Trung Quốc thì e rằng cái người ta truyền bá sẽ không còn là “Phúc âm (tin mừng)” nữa.

Tuyệt đối không được làm kiểu “Tôn giáo dựng sân khấu, kinh tế diễn tuồng”. Có nhà buôn có tiền là xây dựng đền chùa, lại không nắm được quy chế xây dựng, đền chùa họ làm bằng bê tông cốt thép; chẳng những người dân không muốn vào mà cả Bồ Tát cũng không muốn vào, đấy là đền chùa gì thế? Dùng thuốc nổ phá cũng không phá được.

“Ngọn đèn soi bước đi, ánh sáng chỉ đường” [1]

Hỏi: Trong một nước XHCN, trên mặt tư tưởng chỉ đạo thì đảng cầm quyền đối lập với mọi học thuyết duy tâm, kể cả thuyết hữu thần. Tại Trung Quốc, kể từ cải cách mở cửa tới nay Đảng Cộng sản “không tin thần thánh” đã giải quyết nan đề mối quan hệ giữa tôn giáo với CHXH như thế nào?

Diệp Tiểu Văn: Ông Đặng Tiểu Bình từng nói với Ban Thiền thứ X rằng; không thể dùng biện pháp mệnh lệnh hành chính để đối xử với tôn giáo, nhưng về phía tôn giáo cũng không thể làm những chuyện cuồng nhiệt, nếu không thì sẽ đi ngược lại lợi ích của CNXH, của nhân dân. Song đồng chí Tiểu Bình lại chưa nói gì về vấn đề làm thế nào để vừa bảo đảm đầy đủ sự tự do tín ngưỡng tôn giáo lại vừa ngăn chặn được “sự cuồng nhiệt do phía tôn giáo tiến hành” “đi ngược lại lợi ích của CNXH, của nhân dân”. Như vậy nan đề này để lại cho lớp người sau giải quyết.

Qua sự lãnh đạo đúng đắn của mấy thế hệ tập thể lãnh đạo cấp Trung ương, quan điểm tôn giáo của chủ nghĩa Mác đã kết hợp chặt chẽ với thực tế CNXH có màu sắc Trung Quốc, nan đề CNXH và tôn giáo đã được giải quyết một cách xuất sắc. Mười ba năm nay trên cương vị Cục trưởng Cục Sự vụ tôn giáo tôi có dịp tự mình trải nghiệm quá trình hoá giải nan đề này. Trên cơ sở hệ thống quan điểm cơ bản và chính sách cơ bản của đảng cầm quyền về vấn đề tôn giáo, chúng tôi đã chắt lọc và xác lập được phương châm cơ bản về công tác tôn giáo trong thời kỳ mới và đã hình thành một hệ thống lý luận khoa học, tổ chức Đảng tại Vụ Tôn giáo Nhà nước gọi đó là “Lý luận tôn giáo CNXH”.

Lý luận tôn giáo CNXH tức là nên xem xét và giải quyết vấn đề tôn giáo như thế nào.

Xem xét như thế nào, nói tóm lại là “Ba tính chất”: tính lâu dài, tính quần chúng, tính đặc thù. Hồi cuộc “Cách mạng văn hoá” mới chấm dứt, đồng chí Đặng Tiểu Bình có đề nghị đồng chí Hồ Diệu Bang điều tra nghiên cứu kỹ, làm rõ các quan điểm cơ bản, chính sách cơ bản của chúng ta đối với tôn giáo trong xã hội XHCN, phải sửa sai của Cách mạng văn hoá. Đồng chí Hồ Diệu Bang đã tổ chức lực lượng cán bộ tiến hành nghiên cứu điều tra rất lâu, năm 1982 đưa ra bài viết: “Về các quan điểm cơ bản, chính sách cơ bản đối với tôn giáo trong thời kỳ CNXH của nước ta”. Bài này đã tổng kết một cách hệ thống những bài học kinh nghiệm trên hai mặt tích cực và tiêu cực đối với vấn đề tôn giáo sau ngày dựng nước, đề xuất tính phức tạp và tính lâu dài của vấn đề tôn giáo. Tác giả viết: “Ý nghĩ cho rằng tôn giáo sẽ nhanh chóng tiêu vong là một ý nghĩ không hiện thực. Ý nghĩ và cách làm cho rằng dựa vào mệnh lệnh hành chính hoặc các thủ đoạn khác để có thể một đòn là đủ tiêu diệt được tôn giáo lại càng xa rời quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác về vấn đề tôn giáo, là hoàn toàn sai lầm và vô cùng có hại.”

Năm 2001, lần đầu tiên kể từ ngày dựng nước, Trung ương triệu tập hội nghị chuyên đề nghiên cứu công tác tôn giáo, Tổng Bí thư Đảng Giang Trạch Dân thay mặt Trung ương nói chuyện. Ngày đầu tiên, đồng chí Giang Trạch Dân mời các đồng chí Hồ Cẩm Đào, Triệu Quốc, Diên Đông, Uông Hộ Ninh và tôi đến điện Cần Chính nghiên cứu nửa ngày về bài nói ấy, trong đó có một đoạn để lại cho tôi ấn tượng rất sâu sắc. Đồng chí Giang Trạch Dân nói: chúng ta cũng cần nghiên cứu tác dụng tích cực của tôn giáo, tôi đề nghị đồng chí Tiểu Văn rà soát lại xem Mác, Ăng-ghen đã nói những gì về tác dụng tích cực của tôn giáo?

Sau khi tra cứu các tài liệu liên quan, tôi báo cáo: Mác và Ăng-ghen không nói chính diện mà nói tôn giáo là một đoá hoa, song nó là “đoá hoa trên gông xiềng”. Đồng chí Giang Trạch Dân nói, hai vị ấy chưa nói thì tự chúng ta nói vậy. Nói thế nào đây? Theo tôi ta có thể nói từ tính quần chúng của tôn giáo. Hiện nay đọc bài “Vấn đề tôn giáo” trong “Tuyển tập Giang Trạch Dân”, chúng ta có thể thấy bài viết ấy vừa khẳng định tác dụng tích cực của tôn giáo lại vừa vạch ra tác dụng tiêu cực của tôn giáo. Chúng ta nói, chính là bắt đầu từ điểm này người cộng sản Trung Quốc đã phát triển quan điểm tôn giáo của chủ nghĩa Mác.

Hôm sau, đồng chí Giang Trạch Dân chính thức đưa ra trước hội nghị tôn giáo toàn quốc ba tính chất của công tác tôn giáo: căn bản là tính lâu dài, then chốt là tính quần chúng, đặc thù là tính phức tạp. Ba điểm đó là quan điểm cơ bản của chúng ta về vấn đề tôn giáo.

Nói tính lâu dài là căn bản, vì sao nó lâu dài? Đó là do tôn giáo bản thân có nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc tâm lý, nguồn gốc nhận thức luận. Nói về tính quần chúng thì tương đối đơn giản. Tính quần chúng nghĩa là nói người đông. Trên thế giới “trong 5 người thì có 4 theo tôn giáo”, vậy Trung Quốc có bao nhiêu người tin tôn giáo? Bạn hỏi tôi câu này, tôi chỉ có thể dẫn lời Thủ tướng Chu Ân Lai nói “đại để có khoảng hơn 100 triệu người”. Nói tính phức tạp là điểm đặc biệt (của tôn giáo), đó là vì tôn giáo có mối quan hệ đan xen với các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và dân tộc.

Đồng chí Hồ Cẩm Đào có một câu nói về ba tính chất nói trên, trình bầy rất rõ: những người cộng sản Trung Quốc chúng ta theo thuyết vô thần, chúng ta không tin bất cứ tôn giáo nào; nhưng chúng ta lại theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, tất phải dùng quan điểm khoa học để xem xét tôn giáo, nhận thức toàn diện nguồn gốc lịch sử sâu xa, nguồn gốc xã hội, nguồn gốc tâm lý và nguồn gốc nhận thức của sự ra đời và tồn tại của tôn giáo; phải nhận thức toàn diện hiện thực khách quan tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài trong xã hội XHCN; phải nhận thức toàn diện tình trạng phức tạp đan xen lẫn nhau giữa vấn đề tôn giáo với các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, dân tộc; phải nhận thức toàn diện một hiện tượng xã hội là tôn giáo có ảnh hưởng khá lớn đối với một bộ phận quần chúng.

“Xem xét như thế nào” – ta đã xem, nhìn rõ rồi; “Làm gì” thì cũng đã rõ, đó tức là phương châm cơ bản của chúng ta về vấn đề tôn giáo. Trong 15 năm qua, phương châm đó đã phát triển từ ba câu thành bốn câu hiện nay.

Năm 1993 đồng chí Giang Trạch Dân nói tại hội nghị công tác mặt trận thống nhất của trung ương: “Tôi cần nói ba câu về vấn đề tôn giáo: quán triệt toàn diện và đúng đắn chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng; căn cứ luật pháp tăng cường việc quản lý các sự vụ tôn giáo; tích cực dẫn dắt các tôn giáo thích nghi với xã hội XHCN.” Trong 9 năm sau đó, chúng ta cũng nhắc đi nhắc lại ba câu nói ấy tại các hội nghị công tác tôn giáo toàn quốc.

Năm 2002, bản Báo cáo tại Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc biến thành bốn câu. Tôi có tham gia Đại hội XVI, khi thảo luận, mọi người đề xuất: kiên trì nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự làm là việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm chống sự thẩm thấu (tôn giáo) trong tình hình mở rộng cải cách mở cửa. Thế là bổ sung thêm câu này.

Trong một bài nói năm 2006, đồng chí Hồ Cẩm Đào trình bầy rõ 4 câu đó “là phương châm cơ bản của Đảng về công tác tôn giáo”. Năm 2007, câu “quán triệt toàn diện phương châm cơ bản của Đảng về công tác tôn giáo” được nhấn mạnh trong báo cáo của Đại hội XVII. Không những thế mà còn được viết vào Điều lệ Đảng.

Hỏi: Ông từng nói công tác tôn giáo
ở Trung Quốc có hai hòn đá tảng lớn là xây dựng lý luận và xây dựng pháp chế. Ba năm trước, Thủ tướng Ôn Gia Bảo ký duyệt ban hành “Điều lệ sự vụ tôn giáo”. Có người lại cho rằng đó là bản điều lệ hạn chế tự do tôn giáo. Ông đánh giá ý kiến ấy ra sao?

Diệp Tiểu Văn: Hoá giải nan đề tôn giáo và CNXH đòi hỏi có quan điểm lý luận chính xác dẫn dắt, cần có chính sách phương châm đúng đắn chỉ đạo, cần có luật pháp, quy chế cần thiết để thể chế hoá công tác này. Một tín đồ Ki-tô Giáo từng mượn lời thơ trong Kinh Thánh đoạn David ca ngợi luật pháp của Thượng Đế Jehovah “Lời của Người là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi !” Cái “ngọn đèn soi bước đi ” ấy chính là chấp hành quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề tôn giáo và phương châm cơ bản xác định từ đó. Cái “ánh sáng chỉ đường” ấy tức là việc xây dựng pháp chế.

Xây dựng pháp chế là một hòn đá tảng của công tác tôn giáo. Năm 1991, trong văn kiện số 6 của Trung ương Đảng có đề ra “Phải tăng tốc công tác lập pháp tôn giáo”. Do đó Cục Sự vụ tôn giáo nhà nước đã báo cáo lên trên “Ý tưởng về hệ thống lập pháp tôn giáo và các dự án lập pháp tôn giáo trong thời gian Kế hoạch 5 năm lần thứ 8”. Mấy năm nay, ngoài việc xác định các ý tưởng về luật tôn giáo ra, các công tác khác đều đã được thực hiện trên mức độ khác nhau.

Năm 2004, trong bối cảnh thực thi phương châm Quản lý đất nước theo luật pháp, chúng tôi đã xây dựng và ban hành bản “Điều lệ sự vụ tôn giáo” – bộ luật hành chính có tính tổng hợp đầu tiên về sự vụ tôn giáo. Nhưng một số ít người có mưu đồ khác thì lại nói bản điều lệ này của chúng tôi là một bản điều lệ hạn chế tự do tôn giáo, họ công kích mục địch lập pháp của chúng tôi là hạn chế chứ không phải là bảo đảm tự do tôn giáo.

Nhưng điều đó là sai sự thật!

Mục đích lập pháp của Điều lệ này trước hết là để bảo đảm sự tư do tín ngưỡng tôn giáo của các công dân chứ không phải là hạn chế. Chúng ta có thể nêu một thí dụ. Pho tượng Phật lớn trên núi Linh Sơn ở Vô Tích, tỉnh Giang Tô xây dựng xong năm 1995, lúc ấy tôi vừa được đề bạt làm Cục trưởng Cục Sự vụ tôn giáo. Hồi đó còn chưa có quy định nào, luật pháp nào để dựa vào; mọi người đều muốn dựng tượng Phật lớn, càng dựng càng nhiều, tượng dựng càng lớn, rất khó dựa vào luật pháp để giải quyết, các tín đồ Phật Giáo cũng có nhiều ý kiến. Tôi suy nghĩ mấy tháng trời rồi nói với tỉnh Giang Tô: Bây giờ đã dựng xong tượng rồi thì chúng tôi phải quản lý, trước tiên đề nghị chính quyền tỉnh cho ý kiến, báo cáo Cục Sự vụ tôn giáo Nhà nước duyệt. Kết quả chính quyền tỉnh đồng ý, tôi cũng phê chuẩn. Các bạn có thể không biết là đồng thời với việc dựng xong tượng đại Phật ở Linh Sơn thì tỉnh Liêu Ninh cũng làm một tượng Ngọc Phật mà không báo cáo lên trên để duyệt. Cho nên cho tới nay tượng Ngọc Phật này cũng chưa hợp pháp hoá. Khi đến Vô Tích tôi có nói với họ rằng các anh cũng đừng có đắc ý, tôi phải tặng các anh “Bốn cái hiểu biết”: hiểu chính sách, hiểu Phật Giáo, biết quản lý, biết kinh doanh. Họ đã nghiêm chỉnh căn cứ theo các quy phạm, chính sách như “Điều lệ Sự vụ tôn giáo” để quản lý và xây dựng sửa chữa đền chùa, thành lập Ban Quản lý. Hơn nữa còn tiếp tục hoàn thiện công trình, từ đợt 1 làm tiếp đợt 2 rồi đợt 3. Phạn Cung Linh Sơn đợt 3 được dùng làm nơi tổ chức Diễn đàn Phật Giáo thế giới lần thứ II năm 2008. Hiện nay họ đã xây dựng thành công thánh địa mới của Phật Giáo, làm được nhiều thứ tinh sảo.

Tôi nêu thí dụ trên để muốn nói chúng tôi căn cứ “Điều lệ Sự vụ tôn giáo” để quản lý theo luật, cũng là để bảo vệ theo luật. Chỉ cần hoạt động trong phạm vi luật pháp thì sự nghiệp tôn giáo ở Trung Quốc sẽ có thể phát triển lành mạnh. Tuyệt đối không như những người phương Tây nào đó nói, “Điều lệ Sự vụ tôn giáo” tra gông xiềng cho sự tự do tín ngưỡng tôn giáo. Thí dụ này còn có thể nói rõ, người Đảng Cộng sản chúng ta chân thành tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, thế hệ người cộng sản chúng tôi sẽ để lại cho thế giới những tinh phẩm làm rung động lòng người.

Mục đích thứ hai của việc chúng tôi ấn định “Điều lệ Sự vụ tôn giáo” là bảo vệ lợi ích công cộng có liên quan tới sự vụ tôn giáo, thể chế hoá việc quản lý của nhà nước đối với sự vụ tôn giáo có liên quan tới lợi ích công cộng của xã hội. Nhấn mạnh quản lý theo luật cũng tức là ràng buộc chính chúng tôi, tăng cường tính công khai của công tác quản lý hành chính, giảm tính tùy tiện trong quản lý sự vụ tôn giáo. Nói tới quản lý, chúng tôi cần nói rõ là chúng tôi chỉ quản lý sự vụ tôn giáo chứ không quản lý tôn giáo và tín ngưỡng tôn giáo.

Lần đầu tiên tôi đến nước Mỹ, khi đi qua hải quan Los Angeles thì bị người Mỹ chặn lại: “Ông là Cục trưởng Cục Sự vụ tôn giáo nhà nước Trung Quốc phải không? Nước Mỹ chúng tôi không có cơ quan này, cơ quan của ông là giả hiệu, ông có khuynh hướng di cư sang Mỹ, đề nghị ông quay về nước.” Tôi bảo ông ta: chúng tôi phụ trách việc quản lý xã hội và dịch vụ công, chẳng hạn nơi nào cần xây dựng nhà thờ có liên quan tới lợi ích công thì chúng tôi đến phối hợp, quản lý và giúp đỡ họ. Người Mỹ kia như hiểu mà không hiểu nói, ồ thì ra ông làm cái chuyện đó, OK!

Chúng tôi gọi là Cục Sự vụ tôn giáo nhà nước, thường bị mọi người gọi tắt là Cục Tôn giáo nhà nước. Thức ra hai chữ “sự vụ” không thể bỏ đi, bởi lẽ chúng tôi quản lý “sự vụ tôn giáo” là một sự vụ công cộng của xã hội

Tôi đã tổng kết hai định luật quản lý sự vụ tôn giáo: cường độ quản lý của chúng tôi thì tỷ lệ nghịch với độ sâu liên quan tới quan niệm tôn giáo, và có quan hệ tỷ lệ thuận với độ sâu liên quan tới lợi ích công cộng. Lợi ích công cộng nói ở đây là lợi ích nhà nước và lợi ích công cộng xã hội. Hiểu định luật này như thế nào đây, xin nêu một thí dụ.

Nói chung tín đồ tôn giáo đọc kinh nào, giảng kinh nào, điều đó liên quan tới độ sâu quan niệm tôn giáo của người ta, chúng tôi không quản lý chuyện ấy. Nhưng khi tôi đến Tân Cương nghe người ta giảng “Kinh Coran”, trong đó có từ “Jihad”, thường được dịch là “Thánh chiến”. Nhưng có thầy tu đạo Islam Trung Quốc nói “Thánh chiến là tuyên chiến với đại gia đen tối”, mà “Đại gia đen tối” là một từ tiếng Nga, tương đương với “Trung Quốc” [2]. Có thể để ông ta giảng như vậy được chăng? Như thế là nghiêm trọng vi phạm lợi ích công cộng, làm hại an ninh nhà nước. Tôi phải quản lý được cái miệng của ông ta chứ, nhưng tôi lại chẳng phải là thầy tu, ông ta hiểu kinh văn như thế, tôi làm thế nào?

Tôi bèn gặp đại thầy tu Trần Quảng Nguyên, Hội trưởng Hiệp hội đạo Islam Trung Quốc. Ông này tìm được một số thầy tu nổi tiếng về giảng kinh Coran, tổ chức họ biên soạn “Tập bài giảng al-waz mới biên soạn”, giải thích cho mọi người biết “Jihad” là đấu tranh với dục vọng tà ác trong nội tâm chính mình chứ không phải là “tuyên chiến” với kẻ khác. Al-waz tức là giảng giải kinh văn. Thế là có người hỏi, giảng giải kinh chẳng phải là quản lý cả đến quan niệm tôn giáo của người ta đó sao, cớ gì lại quản lý như thế? Đây là một trường hợp đặc biệt liên quan tới lợi ích công cộng.

Vì lợi ích công cộng, chúng tôi còn dựa vào “Điều lệ sự vụ tôn giáo” biên soạn các quy chế riêng từng bộ môn, chẳng hạn chúng tôi dựa vào quy định nguyên tắc về Phật sống chuyển thế trong “Điều lệ Sự vụ tôn giáo” để ấn định và ban hành “Biện pháp quản lý Phật sống chuyển thế của Phật Giáo Tây Tạng”, bắt đầu thực thi từ ngày 1/9/2007. Có người phương Tây hỏi “Các ông muốn làm gì thế”. Chúng tôi quản lý theo luật thôi mà. Phật sống chuyển thế [3] là một phương thức truyền thụ và kế thừa đặc biệt vốn có của Phật Giáo Tây Tạng. Nhằm tránh hiện tượng làm bậy bạ, nhằm bảo vệ tính thuần khiết, tính thiêng liêng và tính hữu hiệu của công việc này, qua sự tìm hiểu thăm dò lâu dài đã hình thành một hệ thống nghi thức tôn giáo và định chế lịch sử. Từ đời nhà Thanh trở đi, quần chúng tín đồ mạnh mẽ yêu cầu nhà nước xác nhận và bảo vệ hệ thống nghi thức tôn giáo và định chế lịch sử này, để cho Phật Giáo Tây Tạng được truyền thụ và kế thừa một cách lành mạnh và thuận lợi. Trong Ung Hoà Cung tại Bắc Kinh có một tấm bia khắc “Lạt Ma nói”, đã nói rất rõ sự việc này. Giờ đây chúng tôi dựa theo yêu cầu của quần chúng ấn định và ban bố “Biện pháp quản lý Phật sống chuyển thế của Phật Giáo Tây Tạng” là để bảo vệ theo luật Phật
Giáo Tây Tạng.

“Phải chăng sau này khi Đạt Lai chết đi cũng vẫn phải quản lý (thủ tục chọn Phật sống chuyển thế)?” Dĩ nhiên phải quản lý chứ. Vụ Sự vụ tôn giáo phải quản lý, chính quyền trung ương phải quản lý. Phải theo đúng nghi thức tôn giáo, định chế lịch sử, ngắm hồ nước (thánh hồ hiển ảnh), phỏng vấn bí mật, nhận ra di vật (của Phật sống kiếp trước), sau đó chọn ra ba Linh đồng-ứng viên, báo cáo Chính phủ trung ương duyệt, tổ chức rút thăm âu vàng chọn lấy một Linh đồng làm Đạt Lai cho Phật Giáo Tây Tạng. Các điều văn quy chế đó dùng hình thức luật pháp xác nhận quyền chủ đạo của chính phủ trung ương trên vấn đề Đạt Lai chuyển thế, luật pháp hoá các nghi thức tôn giáo và định chế lịch sử do lịch sử truyền thụ và kế thừa, chứ không còn là vấn đề truyền thống và tập tục nữa.

Hỏi: Tại sao Tây Tạng lại trở thành một vấn đề? Ông đánh giá ra sao “Thuyết Tây Tạng tôn giáo, chủng tộc”? Mùa thu 2007, Quốc Hội Mỹ tặng Đạt-lai huy chương vàng Quốc hội, báo đài phương Tây đều đưa tin, ông có bình luận gì vấn đề này?

Diệp Tiểu Văn: Chúng ta không đặt ra vấn đề Tây Tạng mà là có người muốn biến nó thành vấn đề. Thực chất nó không phải là vấn đề tôn giáo mà là vấn đề chia rẽ hoặc không chia rẽ. Mỹ và các nước phương Tây luôn nhớ đến vấn đề Tây Tạng. Với vấn đề này, chúng ta cần “Chặn hy vọng của người Tây, khống chế tác dụng phụ của Đạt-lai”

Có 4 lý do làm việc đó. Thứ nhất, về cơ bản toàn dân Tây Tạng tin Phật Giáo Tạng Truyền, trong lịch sử, Đạt-lai là uy quyền tinh thần, cũng là uy quyền thống trị. Thứ hai, Đạt-lai trốn ra nước ngoài, kiểm soát chính phủ lưu vong và hơn 10 vạn đồng bào Tây Tạng lưu vong đi theo. Thứ ba, thế lực chống Trung Quốc của phương Tây ra sức ủng hộ Đạt-lai, còn Đạt-lai thì dựa vào phương Tây để nâng thanh thế. Thứ tư, trên vấn đề Tây Tạng, cuộc đấu tranh giữa chúng ta với tập đoàn Đạt-lai về thực chất không phải là vấn đề tin hay không tin tôn giáo, vấn đề tự trị hay không tự trị, mà là vấn đề ổn định Tây Tạng hay làm rối loạn Tây Tạng, là giữ gìn tổ quốc thống nhất hay chia rẽ, là vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia hay cấu kết thế lực đối địch nước ngoài thọc tay vào nội chính Trung Quốc. “Thuyết Tây Tạng tôn giáo, Tây Tạng dân tộc” là cơ sở lý luận của chủ trương “Tây Tạng tự trị cao” do tập đoàn chia rẽ Đạt-lai và Mỹ đề ra. Từ năm 2003 trở đi, chính phủ Mỹ liên tục trình Quốc hội “Báo cáo chính sách Tây Tạng”, tuyên bố “Mục tiêu cơ bản chính sách Tây Tạng của Mỹ là thúc giục chính phủ Trung Quốc đàm phán với Đạt-lai” để Tây Tạng thực hiện “tự trị thật sự”. Trong cuốn sách “Sư tử Tuyết và Rồng --- Trung Quốc, Tây Tạng và Đạt-lai Lạt-ma”, Goldstein [4] người phát minh lý luận này đưa ra “Thuyết Tây Tạng tôn giáo và chủng tộc”, tức là nói, chúng ta (tức Đạt-lai và Mỹ ) không đòi Tây Tạng độc lập nữa, chúng ta cần “giữ gìn quê nhà của người Tạng có đặc điểm dân tộc Tạng mạnh mẽ về ngôn ngữ, văn hoá, cơ cấu dân số”. Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ cho rằng như thế là “đưa ra một kết luận đơn giản rõ ràng nhất mà thực dụng về cuộc khủng hoảng Tây Tạng”.

Năm 1998, tôi từng trực tiếp đối đầu với Goldstein một lần. Ông ta lên lớp tôi: các ông có vấn đề tồn tại về tính liên tục của văn minh Tây Tạng. Tôi nói, tôi biết các ông rất quan tâm vấn đề tính liên tục của văn minh Tây Tạng, chúng tôi cho rằng tính liên tục đó phải thích ứng với tiến trình văn minh hiện đại, phải thích ứng với sự phát triển, tiến bộ, đoàn kết, hạnh phúc của toàn bộ dân tộc Tạng. Thời kỳ Đạt-lai thống trị, tuổi thọ bình quân của dân Tây Tạng chỉ có 35 tuổi, hiện nay là 69 tuổi. Thế nào là sự kéo dài liên tục của văn minh? Sự kéo dài nền văn minh Tây Tạng chỉ có thể giữ gìn được tốt hơn khi đồng thời phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, chứ không phải là giương lá cờ giữ gìn đặc điểm dân tộc, bảo vệ văn minh tôn giáo, mà để cho một dân tộc suy thoái, để cho dân tộc Tạng trở lại sự lạc hậu của cái gọi là Đất thánh Phật Giáo, toàn dân là tăng lữ, trở lại trong bóng tối chính quyền và tôn giáo hợp nhất làm một, trở lại sự dã man của chế độ nông nô, trở thành vật trưng bầy và đồ chơi để người ta thưởng thức.

Quốc hội Mỹ tặng huy chương vàng gì đó cho Đạt-lai, theo tôi đó là một trò hề. Đạt-lai là kẻ lưu vong chính trị, lâu năm hoạt động chia rẽ tổ quốc, xướng trò chia rẽ Trung Quốc, “Tây Tạng độc lập”. Bản thân ông ta chẳng nặng là bao, xin được cái huy chương của người Tây để tăng trọng lượng cho mình. Trong vở hề kịch này ông ta đóng vai “con hát xướng”. Dĩ nhiên còn có những kẻ đóng vai tâng bốc ồn ào, xuất phát từ mục đích chia rẽ Trung Quốc để ủng hộ tập đoàn Đạt-lai. Những kẻ nhiệt tình với trò ấy chắc là tín đồ Ki-tô giáo. “Kinh Thánh” là sách kinh điển của họ. Tôi lại muốn dùng lời của “Kinh Thánh” để tặng họ: anh muốn người ta đối xử với anh thế nào thì bản thân anh nên đối xử với người ta ra sao.

Hỏi: Vì sao thường xuyên xảy ra các vụ va chạm và đấu nhau giữa Trung Quốc với Vatican? Cuối năm 2006, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, Vatican cố ý lấy danh nghĩa Giáo hoàng đưa ra Thư gửi giáo dân Trung Quốc. Ông bình luận thế nào? Lỗi thoát của đạo Thiên Chúa Trung Quốc ở đâu?

Diệp Tiểu Văn: Sự va chạm giữa chúng ta với Vatican đã kéo dài hơn nửa thế kỷ. Ngay từ khi Trung Quốc mới giải phóng, Vatican đã kích động tín đồ đạo Thiên Chúa Trung Quốc chống Đảng Cộng sản, chống Tân Trung Quốc XHCN, bảo tín đồ lựa chọn giữa Đảng với đạo, “Có đạo thì không Đảng, có Đảng thì không có đạo”. Năm 1983, Giáo hoàng La-mã mong muốn trực tiếp tiếp xúc với chúng ta. Ba năm sau, hai bên bắt đầu tiếp xúc nhiều lần. Vatican biết là chúng ta tuy muốn cải thiện quan hệ hai bên nhưng nhất định kiên trì nguyên tắc trên vấn đề độc lập, tự chủ, tự lo liệu, tự chọn Tổng giám mục. Năm 2000, bất chấp sự phản đối của chúng ta, nhân dịp lễ Quôc khánh Trung Quốc, Vatican làm chuyện “Phong Thánh”, phong toàn bộ số giáo sĩ năm xưa bị nông dân xử tử thành “Thánh”. Trong số “Thánh” ấy có kẻ thì phóng đãng vô liêm sỉ, có kẻ thì đầy vết nhơ. Năm 2006, Giáo hoàng John Paul II tạ thế, chúng ta tỏ ý có thể cử người đi dự lễ tang với điều kiện các nhân vật chính quyền Đài Loan không được đến đấy. Vatican đồng ý. Kết quả Vatican cho phép Trần Thủy Biển (“Tổng thống” Đài Loan) tham gia lễ tang, nghe nói vì Tân Giáo hoàng không có người lo việc này, không ai có thể ra quyết định. Đến hôm Tân Giáo hoàng làm lễ nhậm chức, chúng ta ngỏ ý có thể cử người đi dự vẫn với điều kiện các nhân vật chính quyền Đài Loan không được đến đấy. Vatican lại đồng ý, người của ta đang chuẩn bị lên đường thì họ lại tuyên bố “Bộ trưởng Nội vụ” Đài Loan dẫn một đoàn đến dự. Ông xem, cái Vatican ấy nói lời có giữ lời không?

Vatican áp dụng chính sách bắt cá hai tay, đại để có ba dụng ý: Thứ nhất, tiêm một mũi thuốc trợ tim cho “Chế độ Thánh thống trị” đã kéo dài 20000 năm của mình. Đạo Thiên chua là tôn giáo duy nhất trên thế giới cho tới nay có chế độ giai tầng chặt chẽ và tổ chức trung ương tập quyền. Nếu giáo hội Trung Quốc cũng quy về cho họ lãnh đạo, lẽ tự nhiên điều đó nói lên “Chế độ Thánh thống trị” vẫn tiếp tục giữ được uy quyền. Họ muốn trở lại nắm quyền quản lý giáo hội Thiên Chúa Trung Quốc, họ bổ nhiệm Tổng Giám mục, qua đó phủ nhận giáo hội Thiên Chúa độc lập, tự chủ, tự lo liệu của ta. Hiện nay (giáo hội) Cuba, Việt Nam cũng đều do Vatican quản lý cả, trong các nước XHCN chỉ Trung Quốc chúng ta không nghe họ.

Thứ hai, coi việc mở cánh cửa lớn Trung Quốc là việc quan trọng nhất của “Chiến lược phát triển thiên niên kỷ mới” truyền bá đạo Thiên Chúa.

Thứ ba, do thế không thể chung sống về ý thức hệ, Vatican thù ghét chủ nghĩa xã hội. Hồi ấy họ muốn tiếp tục đóng vai trò cấp tiên phong chống cộng sản nhằm kiếm chút vốn liếng chính trị, cứu vãn địa vị “Trung tâm thế giới” của họ đang ngày một bị gạt ra rìa.

Còn nói về bức Thư gửi Trung Quốc cuối tháng 6 năm 2007, tuy có nói sẽ hủy bỏ một số lệnh trước đây đối với Giáo hội Trung Quốc, hủy bỏ mọi đặc quyền cho các giám mục bí mật, tiến hành đối thoại xây dựng với Trung Quốc, xem ra thái độ của Toà Thánh đối với Trung Quốc đã có tính tích cực nhất định, nhưng về tổng thể vẫn là tiêu cực, một số mặt nào đó còn tụt lùi. Như một nhà quan sát giáo hội lâu nay quan tâm chú ý đạo Thiên Chúa Trung Quốc từng nói khi bàn về bức Thư nói trên, “Việc công bố Thư này cho thấy đức Thánh Cha đi lên con đường đối kháng với Trung Quốc. Thư gửi Trung Quốc gây ra chia rẽ và rối loạn mới trong nội bộ Giáo hội Trung Quốc, kích động tín đồ Thiên Chúa Giáo Trung Quốc tuyệt đối đứng về phía Giáo Hoàng, bức bách họ lần nữa phải lựa chọn giữa Đảng và Đạo. Nguy hiểm hơn nữa là, bức thư đó công khai phủ định Hội Ái Quốc, phủ định Đoàn Chủ Giáo, phủ định nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lo liệu. Giáo Hoàng mới nhậm chức ngỏ ý giữa Toà Thánh với các tín đồ đạo Thiên Chúa Trung Quốc “có sợi dây mang tính chất tôn giáo, không thể tổn hại sự đoàn kết của dân tộc Trung Hoa, dù chỉ là sự tổn hại không đáng kể; cũng không thể dùng bất kỳ hình thức nào làm suy yếu độc lập và chủ quyền của Trung Quốc”, so sánh một chút có thể thấy Tân Giáo Hoàng đã đi thụt lùi.

Mối quan hệ giữa tôn giáo với nhà nước, xã hội, văn hoá cũng giống như mối quan hệ giữa hạt giống với đất đai, ánh nắng, hạt mưa. Lối thoát của đạo Thiên Chúa Trung Quốc là ở chố xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tôn giáo với nhà nước, xã hội, văn hoá. Phục tùng nhà nước thì nhà nước sẽ đối xử tốt với anh; thích ứng với xã hội thì xã hội sẽ khoan dung anh; hoà nhập văn hoá thì văn hoá sẽ tiếp nhận anh. Đạo Thiên Chúa Trung Quốc độc lập tự chủ tự làm Giáo hội có hàm nghĩa đặc biệt, đó là nói sự độc lập tự chủ về chính trị, kinh tế và sự vụ tôn giáo, chứ không phải là làm riêng một bộ giáo nghĩa, giáo quy. Tổng Giám mục Phó Thiết
Sơn qua đời năm ngoái từng nói, trên vấn đề tín ngưỡng, đạo Thiên Chúa Trung Quốc nhất trí với giáo hội Thiên Chúa Giáo các nước trên thế giới, cùng thuộc về một tín ngưỡng, cũng làm lễ rửa tội; giám mục, linh mục, giáo hữu Trung Quốc cũng như các nơi trên thế giới đều cầu nguyện cho đức Thánh Cha. Hiện trạng mối quan hệ giữa Trung Quốc với Vatican là do lịch sử tạo nên; giữ vững nguyên tắc tự chủ tự lo liệu là lợi ích tối cao của dân tộc. Vatican thừa nhận chính quyền ngụy Đài Loan, trên thực tế là không thừa nhận chính phủ hợp pháp duy nhất của nước CHND Trung Hoa. Nếu có người đi vòng qua chính phủ tự liên hệ với Vatican, xem ra là xuất phát từ tình cảm tôn giáo, thực ra là trong đầu óc thiếu mất biểu hiện quan niệm quốc gia mà một công dân Trung Quốc nên có.

Hỏi: Ông đã xuất bản mấy cuốn sách “Nói cho nhân dân Mỹ biết tình hình thật sự của tôn giáo Trung Quốc – Ghi chép phỏng vấn Diệp Tiểu Văn”, “Biến đối kháng thành đối thoại”, bạn đọc mấy cuốn sách này đều là người Mỹ cả, bối cảnh là cuộc tranh cãi tôn giáo giữa Trung Quốc với Mỹ. Xin hỏi, cuộc tranh cãi tôn giáo Trung Quốc-Mỹ rốt cuộc tranh cãi cái gì? Vì sao mà tranh cãi? Chúng ta nên có thái độ đối phó ra sao?

Diệp Tiểu Văn: Mối quan hệ Trung Quốc-Mỹ trên nhiều mặt mấy năm nay phát triển theo hướng hợp tác có tính xây dựng, riêng trên vấn đề tôn giáo thì ngày càng căng thẳng. Vấn đề tôn giáo trở thành một trở ngại cho việc “toàn diện thúc đẩy mối quan hệ hợp tác có tính xây dựng Trung Quốc-Mỹ”.

Mỹ mượn vấn đề tôn giáo để gây sức ép với Trung Quốc, áp lực này đã kéo dài, đã chính trị hoá, cơ chế hoá, pháp chế hoá, quốc tế hoá. 11 năm nay tại hội nghị nhân quyền Liên Hợp Quốc, Mỹ liên tục đưa ra đề án chống Trung Quốc về vấn đề tôn giáo. Mỹ còn có tiểu ban Tự do tôn giáo nhà nước, hàng năm đưa ra một “Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế” liên tục 8 năm nay liệt Trung Quốc vào “Những nước cần đặc biệt quan tâm”, nói “đánh giá về tự do tôn giáo ở Trung Quốc vẫn còn rất kém”. Năm 2006 tại Nhà Trắng, Tổng thống Bush tiếp Dư Kiệt, người được gọi là “Đại biểu Giáo hội gia đình Ki-tô Giáo”, trên thực tế là “nhân sĩ bất đồng chính kiến”. Xuất phát từ nhu cầu thực thi sách lược “Tiếp xúc + ức chế” trong mối quan hệ đối với Trung Quốc, Mỹ liên tục dùng con bài tôn giáo để gây áp lực với Trung Quốc. Một số người ở Mỹ coi Trung Quốc phát triển nhanh chóng là “kẻ có quan hệ tới lợi ích” song cũng là “kẻ va chạm văn minh” tiềm tàng, do đó không ngừng gây sức ép với Trung Quốc trên các mặt kinh tế thương mại, dân chủ, tự do, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, dùng vấn đề tôn giáo làm đột phá khẩu để phân hoá và Tây hoá Trung Quốc.

Mỹ là một quốc gia trên hình thức là thế tục hoá nhưng thực chất là tôn giáo hoá. Do sự toàn cầu hoá tôn giáo, do tính phổ cập thế giới của đạo Ki-tô, sự trỗi dậy của thế lực cánh hữu tôn giáo ở Mỹ, địa vị vấn đề tôn giáo ở Mỹ được nâng cao rõ rệt trong chính sách ngoại giao của Mỹ. Việc các nhân vật chính giới Mỹ dùng việc bới ra vấn đề tôn giáo để tăng tỷ lệ ủng hộ họ trong trưng cầu dân ý, giấc mộng trăm năm Phúc âm hoá Trung Quốc, và sự khác biệt giữa Trung Quốc với Mỹ về định nghĩa tự do tôn giáo – tất cả những cái đó đã làm cho vấn đề tôn giáo vượt ra ngoài kênh ngoại giao truyền thống, trở thành một trở ngại có tính kết cấu trong mối quan hệ Trung Quốc-Mỹ hiện nay.

Thực ra cũng tồn tại khả năng nhất định hợp tác về mặt tôn giáo giữa Trung Quốc với Mỹ. Thí dụ chống khủng bố về mặt tôn giáo, chống chủ nghĩa khủng bố giương lá cờ tôn giáo, là điểm chung lợi ích giữa hai nước Trung Quốc-Mỹ.

Hỏi: Ông có kể chuyện Tổng thống Carter nói với ông là Đặng Tiểu Bình từng trả lời câu hỏi của Carter như sau: Tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Trung Quốc, OK; nhà truyền giáo nước ngoài đến Trung Quốc, NO. Kết hợp thực tế hiện nay, ông cho rằng nên hiểu nguyên tắc hàm chứa trong câu nói ấy thế nào? Trong thời đại toàn cầu hoá, nên đáp trả như thế nào các mệnh đề thời đại không thể lẩn tránh như ngoại giao tôn giáo, giao lưu văn hoá?

Diệp Tiểu Văn: Tôi cho rằng trong câu trả lời của Đặng Tiểu Bình hàm chứa hai nguyên tắc: một là ủng hộ tự do tín ngưỡng, và một là kiên trì độc lập tự chủ, tự lo liệu. Hai nguyên tắc này giống như hai mặt của đồng xu kim loại, được đồng thời viết vào hiến pháp, vừa bảo đảm sự phát triển thuận lợi lành mạnh của Ki-tô Giáo Trung Quốc vừa bảo đảm sự chung sống hài hoà giữa người tin Ki-tô Giáo Trung Quốc với người Ki-tô Giáo trên thế giới.

Thế giới đang nhanh chóng toàn cầu hoá, Trung Quốc đã trở thành một khâu quan trọng không thể thiếu trong toàn cầu hoá. Điều đó làm cho sự giao lưu giữa Trung Quốc với các nước và nhân dân có bối cảnh Ki-tô Giáo đang ngày một tăng cường, ảnh hưởng của Ki-tô Giáo đối với Trung Quốc cũng ngày một tăng lên. Đây là xu thế tất nhiên của giao lưu văn hoá và ngoại giao tôn giáo. Chúng ta hoan nghênh giao lưu văn hoá, câu trả lời của chúng ta là OK. Chúng ta khuyến khích giới tôn giáo nước ta triển khai giao lưu đối ngoại trên cơ sở độc lập tự chủ, bình đẳng hữu hảo, tôn trọng lẫn nhau. Trong thế giới ngày nay các loại tư tưởng, văn hoá sôi động giao lưu, chúng ta vừa có ý thức tự giác phát huy văn hoá ưu tú của dân tộc ta, cũng có tấm lòng rộng rãi hấp thu các thành phần hữu ích trong văn minh Ki-tô Giáo.

Nhưng chúng ta phải thấy là Ki-tô Giáo vào Trung Quốc không chỉ giao lưu văn hoá mà còn có 2 nguyên nhân khác: một là lợi dụng về chính trị, các thế lực quốc tế thù địch giương lá cờ “Truyền Phúc âm” lợi dụng Ki-tô Giáo để thâm nhập qua đó phân hoá, Tây hoá Trung Quốc lay chuyển cơ sở nắm chính quyền của chính đảng cầm quyền. Một nguyên nhân nữa là nhiệt tình truyền giáo, Ki-tô Giáo chủ trương thuyết Nhất thần, duy ngã độc tôn, kiên trì Phổ thế luận, cho rằng đạo Ki-tô là tôn giáo chân chính toàn nhân loại có thể tin theo, cho nên có sứ mạng truyền giáo. Về chuyện lợi dụng chính trị, chúng ta trả lời NO, Về nguyên nhân thứ hai, cũng NO, nhưng cần phân tích cụ thể, đối xử có phân biệt. Chúng ta phản đối mưu mô của các nhà truyền giáo định “cải tổ cơ bản văn hoá Trung Quốc” như viết trong sách Lịch sử Trung Quốc cuối đời Thanh của Cambridge.

Trong quá trình giao lưu văn hoá ta cần cảnh giác nước ngoài lợi dụng tôn giáo để thâm nhập vào Trung Quốc. Sự thâm nhập này vẫn còn hung hăng, ngày một tăng. Tại một số nước, sự thâm nhập của Ki-tô Giáo đã trở thành hành vi của nhà nước, có chỉ huy thống nhất. Họ lợi dụng cơ hội Trung Quốc liên tục tăng cường cải cách mở cửa, mượn chiêu bài trao đổi kinh tế, giao lưu văn hoá và xu thế giá trị quan của xã hội Trung Quốc đa dạng hoá, tham khảo thí dụ Hàn Quốc thành công trong việc mở rộng thế lực Ki-tô Giáo tại vành đai văn hoá Đông Nam Á để thâm nhập khắp nơi. Lợi dụng tôn giáo để thâm nhập vào trong tín ngưỡng tinh thần của chúng ta, vào nhu cầu văn hoá, tâm lý dân tộc chúng ta. Sự thâm nhập của Ki-tô Giáo Hàn Quốc làm chúng ta rất đau đầu. Mấy nghìn nhà truyền giáo từ Đông Bắc đi một mạch xuống Quảng Châu, truyền giáo khắp nơi. Khi vấn đề bất công trong xã hội trở thành nổi cộm, nhiều nông dân và nhà trí thức đi lại khắp nơi, nếu lợi dụng mồi lửa Ki-tô Giáo để tiến hành thâm nhập thì e rằng cái họ truyền bá không còn là “Phúc âm” nữa.

Để ngăn chặn nước ngoài lợi dụng tôn giáo tiến hành thâm nhập, một là phải giương cao ngọn cờ độc lập tự chủ, tự lo liệu của tôn giáo nước ta, dùng sự tự tôn dân tộc và tự tin văn hoá để “chặn” sự thâm nhập đó; hai là phải dùng vũ khí luật pháp, dùng biện pháp pháp chế để “quản lý” sự thâm nhập đó; ba là phải ủng hộ Ki-tô Giáo nước ta triển khai việc xây dựng tư tưởng thần học, dùng tự trị, tự dưỡng, tự truyền (giáo) để “hoà tan” sự thâm nhập đó.

Hỏi: Mùa xuân năm nay ông đến Quảng Châu dự Diễn đàn Phật Giáo thế giới lần thứ nhất và kết hợp chủ đề “Thế giới hài hoà bắt đầu từ con tim” để phát biểu ý kiến. Mùa thu năm ngoái, Đại Hội XVII Đảng CSTQ đề xuất hai từ mới là “Quan tâm nhân văn” và “Khơi thông tâm lý”. Xin hỏi, nên xem xét hai từ mới này thế nào? Ông cho rằng tôn giáo có giá trị gì đối với “Khơi thông tâm lý”? Tôn giáo có thể dùng cách nào để đóng góp cho xã hội hài hoà?

Diệp Tiểu Văn: Sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện nay sẽ gây ra hai nỗi căng thẳng. Thứ nhất là căng thẳng trong mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, thứ hai là căng thẳng trong mối quan hệ người-người. căng thẳng cao độ sẽ gây ra hai nỗi lo. Một là lo xã hội mất khuôn phép, hai là lo sự va chạm giữa các nền văn minh. Vào lúc này, Đảng cầm quyền đưa ra “Quan tâm nhân văn” và “Khơi thông tâm lý” là hợp thời thế, cùng tiến kịp thời đại, chứng tỏ công tác chính trị tư tưởng của Đảng cầm quyền đã bắt đầu chú trọng tới sự cảm thụ nội tâm của mọi người.

Tôn giáo có thể “Vì căng thẳng mà tăng thêm căng thẳng, vì lo lắng mà tăng thêm lo lắng”, cũng có thể “Dùng hài hoà hoá giải căng thẳng, dùng yên lành thay cho lo lắng”. Tôn giáo có ý nghĩa lớn đối với “khơi thông tâm lý”. Chẳng hạn Phật Giáo: năm 2006 Trung Quốc đăng cai tổ chức thành công Diễn đàn Phật Giáo thế giới lần thứ nhất; chủ đề “Xã hội hài hoà bắt đầu từ con tim” tỏ rõ giá trị của Phật Giáo trong việc xây dựng xã hội hài hoà, khơi thông tâm lý.

Từ mùa hè năm 2007 trở đi tôi lần lượt viết một số bài bàn thảo về tác dụng tích cực của tôn giáo trên mặt xúc tiến xã hội hài hoà. Tôn giáo cần phát huy tác dụng tích cực để đóng góp cho xã hội hài hoà, trước tiên bản thân tôn giáo phải là nhân tố tích cực, phải tăng cường tự xây dựng. Như Phật Giáo nói “Độ mình” thì mới “Độ người” được. Tổng Giám mục Phó Thiết Sơn sinh thời có đề xuất với Chủ tịch Giả Khánh Lâm [5] quan điểm “5 tôn giáo cùng tỏa sáng, cùng nhau xây dựng Trung Quốc hài hoà tôn giáo”. Chủ tịch Giả Khánh Lâm cũng khẳng định ảnh hưởng tích cực của các lãnh tụ 5 tôn giáo lớn ở nước ta. Tôn giáo phải tăng cường
tự xây dựng, những người thuộc giới tôn giáo về mặt chính trị thì phải tin cậy, về mặt học thức thì phải có trình độ, về phẩm đức thì phải biết phục tùng. Thí dụ Tổng Giám mục đạo Thiên Chúa Trung Quốc Tôn Hoài Đức, Toà Tổng giám mục của ông tại Tế Nam nhà cửa rất giản dị không lắp cả điều hoà nhiệt độ và hệ thống sưởi, ông vẫn ngủ trên phản gỗ.

Hỏi: Năm kia, Diễn đàn Phật Giáo thế giới lần thứ nhất khi bế mạc tại Phổ Đà Sơn có dựng tấm bia khắc bản Tuyên ngôn Phổ Đà Sơn, đề xướng Tân Lục Hoà. Năm ngoái, sau khi Diễn đàn Đạo đức kinh quốc tế bế mạc, ông có viết bài bàn về vấn đề “Sự trở về và siêu việt của văn hoá”. Xin hỏi, ngày nay, trong tình hình kinh tế thị trường mâu thuẫn với tinh thần nhân văn, việc đăng cai tổ chức Diễn đàn Phật Giáo thế giới và Diễn đàn Đạo đức kinh có giá trị và ý nghĩa như thế nào?

Diệp Tiểu Văn: Ca ngợi Đạo đức kinh xem ra là sự lưu luyến truyền thống, thực ra là tiến mạnh lên hiện đại, hướng tới tương lai. Việc xem xét kỹ Đạo đức kinh là một nỗ lực của văn hoá truyền thống Trung Hoa chuyển hoá tới hiện đại hoá, toàn cầu hoá và tái lập. Văn hoá là cội nguồn dân tộc, tinh thần là linh hồn dân tộc, truyền thống là gốc rễ của dân tộc. Chúng ta cần ngăn chặn sự Tây hoá trong lĩnh vực ý thức hệ, nhất là lĩnh vực tôn giáo; muốn thế thì phải nhận thức đúng phương hướng của văn hoá tiên tiến, giữ gìn và phát triển đặc tính văn hoá dân tộc, cố gắng hoằng dương phần trí tuệ thích hợp thời đại của văn hoá, thực hiện sự tự giác văn hoá của chúng ta.

Nhìn suốt lịch sử thế giới, có thể thấy sự hưng vượng cường thịnh của một quốc gia, một dân tộc thì không những là kinh tế phồn vinh mà còn phải có chỗ nương tựa là một nền văn hoá, văn minh nhất định. Văn hoá tôn giáo từng có tác dụng lịch sử quan trọng trong việc cấu tạo nên sự nương tựa văn hoá, văn minh đó. Từ Khang Hữu Vi cho tới một số Tân Nho gia thời nay đều chủ trương Trung Quốc muốn lớn mạnh thì phải đề xướng Khổng Giáo. Lại có người đưa ra chủ trương cần “Dùng Nho giáo để cai trị đất nước, dùng Đạo giáo để sửa mình, dùng Phật Giáo để sửa cái tâm”. Ngày nay chúng ta không nên lại đề xướng dùng tôn giáo nào đó để thay cho văn hoá truyền thống, nhưng cũng chớ nên coi nhẹ một sự thật lịch sử cơ bản là trong văn hoá truyền thống của nhiều dân tộc trên thế giới đều có nhân tố tôn giáo nhất định.

Xét tới tác dụng đặc biệt của tôn giáo và văn hoá tôn giáo trong dòng sông dài lịch sử nhân loại, chúng ta cần khai thác các nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, lọc lấy thành phần hữu ích trong văn hoá truyền thống Trung Quốc như Nho, Đạo, Thích. Thí dụ, nội hàm “Hoà” chứa đựng phong phú trong văn hoá truyền thống Trung Quốc, trong đó đạo hài hoà đáng để chúng ta khai thác.

Trải qua hai nghìn năm phát triển, Phật Giáo ở Trung Quốc đã có đặc sắc văn hoá Trung Quốc rõ nét, trong đó “một bầu hoà khí” đậm đà, chứa đựng “Hoà phong” (gió nhẹ). Dựa trên tư tưởng duyên khởi và quan niệm bình đẳng của mình, Phật Giáo xưa nay đều nói “Hoà”, là tôn giáo chủ trương hoà bình, tán thành bình đẳng. Bình đẳng khiến người ta sinh lòng từ bi, thông cảm khoan dung lẫn nhau. Phật Giáo còn đặc biệt nhấn mạnh sự hoà bình nội tâm, sự “Tịnh” (sạch) bên ngoài đến từ “Tịnh” trong lòng, sự “Hoà” bên ngoài đến từ “Hoà” trong lòng. Phật Giáo nhấn mạnh tăng đoàn phải tuân theo quy tắc “Lục Hoà Kính” tức: Thân hoà đồng trú, khẩu hoà vô tranh, ý hoà đồng duyệt, giới hoà đồng tu, kiến hoà đồng giải, lợi hoà đồng quân (cùng ở với nhau, cùng nói lời vui hoà, ý hoà cùng vui, cùng nhau giữ giới thì cùng tu được với nhau, cùng hiểu như nhau thì cùng giải hoà, quyền lợi cùng chia đều nhau). Ngày nay xã hội tiến lên nhanh chóng, cần “Tân Lục Hoà”: nhân tâm hoà thiện, gia đình hoà lạc (gia đình hoà thuận vui vẻ), nhân tế hoà thuận (mọi người hoà thuận với nhau), xã hội hoà mục, văn minh hài hoà, thế giới hoà bình.

Trong Đạo Giáo cũng chứa đựng ý tưởng “Hoà” phong phú, tư tưởng lành mạnh nhân loại hài hoà, tư tưởng trị quốc an bang hài hoà, tư tưởng bảo vệ môi trường hài hoà. Trong thời đại mới khi dân tộc Trung Hoa xây dựng xã hội hài hoà thì Đạo Giáo cũng cần dùng hoà khí điềm lành của phương Đông để làm dịu “sự va chạm giữa các nền văn minh” trên thế giới.

Hỏi: Khi đi các nơi trong cả nước để phỏng vấn, chúng tôi thấy một số đô thị còn tồn tại nỗi nghi ngờ về việc xây dựng tràn lan đền chùa, dường như chính quyền địa phương cũng tương đối ủng hộ việc đó, có người nói lý do là “Tôn giáo dựng sân khấu, kinh tế diễn trò”, nhằm đóng góp cho phát triển kinh tế; cũng có lý do xây dựng đền chùa thì có thể “phát huy tác dụng tích cực của tôn giáo trong việc xúc tiến xã hội hài hoà”. Ông có ý kiến gì về việc này?

Diệp Tiểu Văn: Việc xử lý đúng đắn mối quan hệ tôn giáo, phát huy tác dụng tích cực của tôn giáo trên mặt xúc tiến xã hội hài hoà không đồng nghĩa với việc xây dựng tràn lan đền chùa, dựng tượng Phật. Nhìn tổng thể, nơi hoạt động của tôn giáo về cơ bản đã đủ dùng, thế nhưng việc mở rộng xây dựng tràn lan vẫn cấm rồi lại xây, có nơi là “doanh nghiệp xây đền chùa”, cá biệt có “chính quyền xây dựng đền chùa”. Anh xuống điều tra, khi thấy một ngôi đền nhỏ, mọi người sẽ nói” Một ngôi đền, một vị thần, đằng sau là một người” – người đó là ông bà chủ, thậm chí là trưởng làng. Họ mượn đền chùa để thu tiền hương khói. Cần nghiêm túc truy cứu trách nhiệm của lãnh đạo. Đối với doanh nghiệp mượn tôn giáo để kiếm tiền, cần dựa vào “Điều lệ sự vụ tôn giáo” để phạt tiền, cần làm cho doanh nghiệp đó không kiếm ăn được bằng đền chùa, chẳng phải anh muốn kiếm tiền đó sao?

Tuyệt đối không được làm cái “Tôn giáo dựng sân khấu, kinh tế diễn trò”. Có thương gia sẵn tiền thì xây dựng đền chùa nhưng lại không hiểu quy tắc, xây dựng đền chùa gì mà nhà toàn là bê tông cốt thép, chẳng những người không muốn đến mà Bồ Tát cũng chẳng muốn vào, thế mà là chùa à? Đánh thuốc nổ cho sập cũng không sập. Có địa phương dựng pho tượng Phật khổng lồ bụng rỗng, bên trong có mấy phòng để cho thuê hoặc tổ chức hát ka-ra-ô-kê. Xét về Phật Giáo, anh chui vào bụng Phật hát ka-ra-ô-kê chẳng phải là anh đi tìm cái chết đó sao?

Không được làm chuyện “Tôn giáo dựng sân khấu, kinh tế diễn trò”, không được loạn xây dựng đền chùa, loạn dựng tượng Phật. Một thị trấn nọ đã có một pho tượng đại Phật rồi, lúc đó thị trấn bên cạnh cũng lại dựng một tượng đại Phật khác, lại còn nhờ mối quan hệ với nước ngoài đến gặp tôi. Chẳng còn cách nào, tôi bảo họ, một địa phương không lớn mà chỗ này một đức Phật đứng đây, chỗ kia lại có một đức Phật nữa đứng, đêm hôm thanh vắng hai vị ấy cãi nhau thì làm sao? Cho nên chúng tôi duyệt xét việc dựng tượng xây đền chùa một cách vô cùng nghiêm ngặt nhằm nghiêm cấm việc xây dựng tràn lan. Chúng ta không cần phát triển tôn giáo mà cần cố gắng làm cho các tôn giáo đang tồn tại có thể phục vụ nhiều hơn cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc, đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế, ổn định xã hội.

Hỏi: Ngày 8.11.2007 là ngày kỷ niệm 100 năm sinh cụ Triệu Phác Sơ [6]. Hôm 20 tháng 4 năm đó, cụ Phó Thiết Sơn nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, Tổng Giám mục giáo xứ đạo Thiên Chúa Bắc Kinh tạ thế. Nghe nói sự qua đời của các vị đó thường làm cho các nhân sĩ tôn giáo than thở “Thánh nhân bất tái”, từ đó liên tưởng tới chuyện nhân tài tôn giáo không thể đáp ứng nhu cầu phát triển sự nghiệp tôn giáo. Ông có ý kiến gì về vấn đề này?

Diệp Tiểu Văn: Cụ Triệu Phác Sơ và Tổng Giám mục Phó Thiết Sơn là các lãnh tụ kiệt xuất của Phật Giáo và Ki-tô Giáo. Tôi là bạn vong niên của hai vị này. Sinh thời họ thường nói về vấn đề đào tạo nhân tài trẻ cho tôn giáo. Có lần nói chuyện tại Ngũ Đài Sơn, tôi nói đại lục Trung Quốc ngày nay tuy rằng khắp nơi có đền chùa trang nghiêm tráng lệ, nhưng cái thiếu là người tài. Anh xem, Đài Loan hòn đảo quý của tổ quốc ta đã xuất hiện mấy vị pháp sư có ảnh hưởng trên thế giới. Có vị pháp sư Đài Loan đến sân bóng đá Hồng-công giảng kinh cho cả chục nghìn người nghe, muốn vào nghe phải mua vé kia. Nếu giảng kinh không hay thì ai mua vé vào nghe làm gì? Chúng tôi mong sao đại lục Trung Quốc ngày nay sẽ xuất hiện các vị cao tăng như pháp sư Thái Hư, pháp sư Hoằng Nhất, có thể đi ra thế giới thể hiện phong thái “Đại Trung Quốc hữu Phật” (Trung Quốc lớn có Phật).

Chẳng những Phật Giáo mà cả 5 tôn giáo lớn đều có vấn đề nhân tài. Thử so sánh với tình hình phát triển thần học Ki-tô Giáo ở các nước đang phát triển: Nam Mỹ có “Thần học giải phóng”, châu Phi có “Thần học của người da đen”, Phi-lip-pin có “Thần học dân đen” (nguyên văn Thảo căn Thần học), Trung Quốc có thần học nào ? Chẳng biết nữa ! Các nhà thần học thế hệ trẻ của chúng ta phải đứng dậy thôi. Trước ngày thành lập Tân Trung Quốc, giáo hội đạo Thiên Chúa Trung Quốc về chính trị, kinh tế và về quản lý giáo hội đều phụ thuộc vào giáo hội phương Tây, về tư tưởng thần học cũng vậy. Ngày nay, qua phong trào yêu nước phản đế, đi lên con đường độc lập tự chủ tự lo liệu, Ki-tô Giáo và Thiên Chúa Giáo Trung Quốc đã trở thành sự nghiệp tôn giáo do tín đồ Trung Quốc tự lo liệu – thành tích này thực sự đáng để chúng ta tự hào. Thế nhưng nếu trong thời gian dài mà giáo hội đạo Ki-tô, đạo Thiên Chúa Trung Quốc chưa hình thành được tư tưởng thần học tương xứng với địa vị độc lập về chính trị, kinh tế thì phải chăng đây là một vấn đề đáng để coi trọng ?

Con người có thể hoằng dương tôn giáo chứ tôn giáo không thể hoằng dương con người. Đào tạo nhân tài tôn giáo là khâu then chốt của công tác “Phát huy tác dụng tích cực của các nhân sĩ tôn giáo và quần chúng tín đồ trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội”. Tại buổi học tập thể của Bộ Chính trị Trung ương Đảng ngày 18.12.2007, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào từng nói cần tăng cường xây dựng đội ngũ nhân
viên tôn giáo. Cần cố gắng hơn trong việc đào tạo, tuyển chọn đề bạt và sử dụng, cố gắng hình thành một đội ngũ nhân viên giáo chức tôn giáo đạt yêu cầu về chính trị thì tin cậy, về học thức thì có trình độ, về đạo đức thì có thể phục tùng. Năm ngoái chúng tôi đã ban hành Lệnh số 6 của Cục Sự vụ tôn giáo nhà nước, công bố “Biện pháp lập viện, trường tôn giáo”. Chúng ta cần làm tốt việc tổ chức các viện, trường tôn giáo, đào tạo nhân tài tôn giáo.

Hỏi: Cuối cùng, xin hỏi ông một vấn đề cá nhân: Ông là quan chức hành chính cao nhất chủ quản sự vụ tôn giáo nhà nước, có thể hiểu công việc của ông rất bận, lắm đầu mối phức tạp. Nhưng dù thế ông vẫn tự viết được 5-6 tập chuyên luận. Xin hỏi, ông làm thế nào tranh thủ ngoài giờ làm việc để viết được nhiều tác phẩm như vậy?

Diệp Tiểu Văn: Ngày 15.5.1995 tôi được Quốc Vụ Viện bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Sự vụ tôn giáo Quốc Vụ Viện, nay gọi là Cục Sự vụ tôn giáo Nhà nước. Tôi đã làm việc trên cương vị này được 13 năm. Tôi rất may mắn được trên cương vị quan trọng đó trải nghiệm tiến trình quan trọng Trung ương Đảng và Quốc Vụ Viện dẫn dắt tôn giáo thích ứng với chủ nghĩa xã hội, được có dịp tiếp xúc thân mật với các vị lãnh tụ tôn giáo kiệt xuất như Triệu Phác Sơ, Phó Thiết Sơn, Đinh Quang Xuyên, Trần Quảng Nguyên, được cùng làm việc cùng nghiên cứu với các anh chị em cán bộ công tác tôn giáo – đó là tiền đề và cơ sở giúp tôi có thể viết được các tác phẩm của mình. Tại tỉnh Giang Tô, tôi từng được một vị chủ tịch thị trấn nói cho nghe câu châm ngôn của ông ta: làm một cán bộ cơ sở, ban ngày phải “đi, làm, nói”, ban tối phải “đọc, viết, nghĩ”. Ở đây “đi” tức là đi xuống cơ sở, đi vào quần chúng; “làm” tức là làm việc; “nói” tức là nói cho mọi người biết các chủ trương, chính sách của chúng ta; “đọc, viết, nghĩ” tức là phải vừa đọc sách, học tập lại phải cầm bút viết lách, động não. Là Cục trưởng Cục Sự vụ tôn giáo nhà nước, dĩ nhiên tôi có bận rộn với các sự vụ tôn giáo, ban ngày tôi cũng phải liên tục “đi, làm, nói”. Nhưng tôn giáo không có việc nào là việc nhỏ cả, chẳng sự vụ tôn giáo nào lại không cần tư duy lý luận, không cần xem xét cân nhắc về chính trị, không chứa đựng nội hàm văn hoá. Chẳng còn cách nào, công việc buộc tôi buổi tối không thể không dành thời gian ra để “đọc, viết, nghĩ”.

Nhờ “Ban ngày đi-làm-nói, ban tối thì đọc-viết-nghĩ”, cho nên mấy năm nay tôi lần lượt xuất bản được một số trước tác như: “Nhìn các vấn đề xã hội từ nhiều góc độ”, “Bước đi bắt đầu từ trái tim”, “Vấn đề tôn giáo: nên xem xét ra sao, nên làm thế nào”; “Biến đối kháng thành đối thoại – ghi chép bài nói của Diệp Tiểu Văn với phái đoàn Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ”, “Nói cho nhân dân Mỹ biết tình hình thật sự của tôn giáo Trung Quốc – ghi chép các câu hỏi và trả lời của Diệp Tiểu Văn” và “7 ngày nói về tôn giáo”. Khi tới thăm trường đại học Yale, chủ tịch Hồ Cẩm Đào có tặng nhà trường một số sách, trong đó có cuốn “Nói cho nhân dân Mỹ biết tình hình thật sự của tôn giáo Trung Quốc – ghi chép các câu hỏi và trả lời của Diệp Tiểu Văn”.

Nguyễn Hải Hoành lược dịch và ghi chú

Nguồn: http://www.infzm.com

[1Đây là một câu trong Cựu Ước, nguyên văn: Lời Chúa là ngọn đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.

[2Đại gia đen tối: Người Nga thời cổ hiểu nhầm người Hán là người Khiết Đan (một dân tộc thiểu số từng thống trị miền bắc Trung Quốc thời trung cổ, năm 907 lập nên nước Khiết Đan, sau đổi là vương triều Liêu, rất có ảnh hưởng ở Trung Quốc), vì thế họ gọi Trung Quốc là Kitai. Dưới ảnh hưởng của Nga, người Mông Cổ gọi người Hán là Hitad (Khiết Đan). Người Tân Cương chịu ảnh hưởng của Mông Cổ cũng gọi người Hán là Hitad. Từ này trong tiếng Tân Cương vốn không có ý nghĩa gì, nhưng cuối cùng lại diễn biến thành từ đồng âm với “Hắc đại gia” (đọc Heidaye, ý không tốt) trong tiếng Trung Quốc, trở thành tên chung người Tân Cương gọi người Hán nói riêng, người Trung Quốc nói chung.

[3Phật Giáo Tây Tạng cho rằng con người kiếp này chết về thể xác, sinh mạng lại tiếp tục chuyển sang kiếp sau (chuyển thế), do đó vị Phật sống chức vị cao nhất như Đạt-lai (dưới đó là Ban Thiền) sau khi chết lại sẽ chuyển thế vào một người khác, thường xuất hiện trong các linh đồng (thần đồng linh dị, là trẻ nhỏ bẩm sinh đặc biệt thông minh hơn người). Chính quyền và sư sãi có nhiệm vụ bỏ nhiều năm đi khắp nơi thăm dò tìm kiếm phát hiện các linh đồng đó, tổ chức phỏng vấn, thử nghiệm, thẩm tra, rước về chùa cung phụng…Vua Càn Long quy định: sau khi chọn được một số linh đồng, phải thông qua việc rút thẻ kim bình (âu vàng) để rút thăm chọn lấy một linh đồng chuyển thế, cuối cùng chính quyền trung ương Trung Quốc ra quyết định công nhận một linh đồng chuyển thế làm Đạt-lai. Đạt-lai đời thứ XIV sinh năm 1935, năm 2 tuổi được thừa nhận là hoá thân của đức Đạt-lai đời thứ XIII. Hiện nay Đạt-lai XIV sống lưu vong tại Bắc Ấn Độ, trước khi ông viên tịch thì Tây Tạng vẫn chưa có Đạt-lai nào khác.

[4Melvyn Goldstein: giáo sư người Mỹ, nhà nhân loại học và Tây Tạng học nổi tiếng, từng viết nhiều sách về Tây Tạng như Lịch sử hiện đại Tây Tạng 1913-1951; Sự diệt vong của vương quốc Lạt-ma...

[5Giả Khánh Lâm: hiện là chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị Trung Quốc (tương đương Mặt trận Tổ quốc ở Việt Nam).

[6Triệu Phác Sơ (1907-2000): nhà yêu nước và hoạt động xã hội nổi tiếng, Hội trưởng Hội Phật Giáo Trung Quốc suốt gần nửa thế kỷ sau giải phóng (1953-2000), đồng thời là nhà thơ, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng.