Những tiến sĩ Đức trong hàng ngũ Việt Minh (1)


Từ trái qua phải:
Ngồi: Phạm Văn Đồng, Erwin Borchers (Chiến Sỹ), Ernst Frey (Nguyễn Dân), Võ Nguyên Giáp, Đặng Bích Hà (vợ tướng Giáp) ; Đứng : Lưu Văn Lợi, X, X, Rudy Schröder (Lê Đức Nhân). Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte.
Để tưởng nhớ Georges Boudarel (2) từ trần ngày 26-12-2003

I – Những trang sử chung

Nói tới những trí thức thuộc những nước sử dụng tiếng Đức đã đi theo Việt Minh, là đụng tới lịch sử Việt Nam giai đoạn 1941-1966, và đụng tới cả lịch sử Pháp, Áo và Đức từ năm 1933 đến nay. Đó là những trang sử chung của chúng ta, nên đó cũng là đề tài chúng ta gặp nhau. Cuộc hội thảo này có mục đích soi rọi một chương đoạn còn ít được biết. Về phần tôi, chỉ có thể làm công việc truy tìm những tư liệu và từ đó, dựng lại những sự kiện. Nhưng chứng từ của những người đã quen biết họ, làm việc với họ cũng rất quý báu và đáng hoan nghênh.
Tôi đã may mắn tìm ra những tư liệu, đôi khi cả những phông tư liệu trong thư khố của Cộng hoà Dân chủ Đức cũ (CHDCĐ), của Pháp, dưới hầm một ngôi nhà nông thôn không xa thành phố Frankfurt trên sông Main, hay trong một căn phòng chứa vật dụng phế thải ở Paris, hoặc nhờ một bà cụ già ở Vienna. Phải nói là trong các cuộc kiếm tìm năm 2003, đôi khi tôi có cảm giác mình đang làm sống lại những con người đã bị người ta bỏ quên, bỏ quên vì chuyện của họ “có vấn đề”. Trên mỗi trang tư liệu, trong mỗi cuộc hỏi chuyện, tôi khám phá ra một nét mới trong cuộc đời của họ. Chúng ta hãy cùng nhau bù đắp sự quên lãng ấy, dù rằng đối với những ai đã quen biết và thương mến họ, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng suôn sẻ.

II – Một vấn đề có lợi cho CHDCĐ

Trước khi đi theo trình tự thời gian và phác hoạ lại một vài hành trình tiêu biểu, tôi muốn nói qua về việc hồi hương của các hàng binh dưới góc độ chính trị CHDCĐ :
Ngày 20.2.1950, Erich Honecker, lúc đó là chủ tịch Phong trào Thanh niên Đức (FDJ), đã ra tuyên bố kêu gọi “những người lính Đức đang ở Việt Nam trong hàng ngũ đội quân Lê Dương”. Vì sự tham gia Lê Dương của họ “đi ngược lại tiền đồ và danh dự của dân tộc ta”, ông kêu gọi hãy đứng sang “phe cách mạng Việt Nam hiện nay đã có nhiều người lính Lê Dương cũ người Đức tham gia”. Honecker hứa là người nào trở về CHDCĐ sẽ được ân xá và tạo công ăn việc làm [3]. Bốn tháng sau, chủ tịch CHDCĐ Wilhelm Pieck nhận được thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam cho biết “có nhiều binh lính Đức hiện đang là tù binh của Giải phóng quân Việt Nam”. Vấn đề này được coi là rất quan trọng, Pieck đã báo cáo trước Bộ chính trị vì “nếu chúng ta đưa được một số (những người này) về nước, thì là một điều... quá hay cho công tác tuyên truyền sang Tây Đức” [4]. Và khi chuyến đầu tiên chở lính Lê Dương cũ sắp về tới Đức, tổng bí thư Đảng xã hội thống nhất (SED) Walter Ulbricht đã chỉ thị “phát động một chiến dịch tuyên truyền chống chính sách tái võ trang Tây Đức, thông qua những cuộc phỏng vấn, những chương trình phát thanh và phổ biến hình ảnh” [5]. Qua việc này, ta thấy rằng, ngay từ đầu, các hàng binh người Đức đã được sử dụng trong cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của CHDCĐ...
Cho nên sau đó Bộ an ninh CHDCĐ (Stasi) được chỉ thị “kiểm soát thường xuyên” những người trở về: đọc thư, theo dõi... Bộ an ninh đòi hàng tháng phải báo cáo về công tác, sinh hoạt xã hội, đạo đức và thái độ chính trị của mỗi người, và nhất là về các mối liên hệ của họ với “phương Tây” [6]. Bởi vì, cho dù họ tham gia phong trào chống thực dân của Việt Minh đi nữa, “đạo quân Lê Dương, những tội ác mà lính Lê Dương reo rắc... ở các nước thuộc địa tạo ra những điều kiện thuận lợi để các lực lượng phản động Pháp có thể lợi dụng khai thác những phần tử yếu đuối, dễ dao động nhằm phục vụ mục đích của đế quốc” [7]. Chủ trương này được áp dụng đối với những thanh niên gia nhập Lê Dương sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, và cả những người đấu tranh chống phát xít từ thập niên 1930. Và CHDCĐ đã gài một số người hồi hương vào các cơ quan đại diện của Pháp ở Berlin.
Cũng trong thời kì đó, trong những vùng Việt Minh kiểm soát, xì xào tin đồn là đã xảy ra (và rất có thể đã có xảy ra) một cuộc nổi loạn của lính Âu châu đào ngũ. Đó là những người đã nghe theo tiếng gọi của Erwin Borscher, tức Chiến Sỹ, tổng biên tập những tờ báo tuyên truyền địch vận.
Ngày 6.8.1950, cũng ở Việt Bắc, một người Đức khác, Rudy Schröder (mà người Việt Nam quen biết dưới cái tên Lê Đức Nhân), được ông bạn Trần Văn Giàu cho biết “một tỉ số đáng kể” hàng binh Âu-Phi “sắp được đưa về nước”. Schröder không tài nào hỏi thêm được chi tiết cụ thể hơn và cảm thấy chung quanh mình là sự im lặng và nghi ngờ bao trùm [8]. Đáng chú ý là Trần Văn Giàu dùng chữ tù binh chứ không dùng chữ hàng binh. Sự lỡ lời này cho thấy thâm tâm người Việt Nam coi những đồng minh châu Âu của họ ra sao.
Họ là ai? Thực ra, phải phân biệt hai loại. Thứ nhất là những người sinh ra khoảng năm 1910, sau tháng giêng 1933, đã phải bỏ nước Đức hay nước Áo sang Pháp tị nạn phát xít, đến tháng 9 năm 1939, khi chiến tranh thế giới bùng nổ, Pháp đưa họ vào những trại tập trung, sau đó họ đăng kí vào các đơn vị Lê Dương. Họ được đưa sang Đông Dương và cuối cùng, họ đã gia nhập kháng chiến chống thực dân. Số người này không đông, khoảng một chục, nhưng họ là những người có lí tưởng chính trị, có văn hoá và có học. Những người lính Lê Dương “ngoài khuôn mẫu”.
Loại thứ nhì, cũng là đa số, năm 1945 ở lứa tuổi 17-25, là những thanh niên mất phương hướng sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ. Vô học, vô gia cư nghề nghiệp, tứ cố vô thân, họ tìm thấy ở đội quân Lê Dương cơ hội giải thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng, một nơi chốn nương tựa. Họ đào ngũ, chạy sang theo Việt Minh vì nhiều lí do khác nhau, trong đó chính trị là lí do ít quan trọng hơn cả. Từ 1946 đến 1954, tổng cộng có 1325 lính Lê Dương đã bỏ ngũ theo Việt Minh, trong đó 673 người bỏ ngũ trong thời gian 1946-48. [9]
Như đã nói trên, chính phủ Việt Nam đã cho binh lính Đức trở về CHDCĐ. Trong số này, có cả tù binh lẫn “hàng binh”.[10] Từ tháng ba 1951 đến cuối năm 1955, tổng cộng có 761 người, đi làm 7 đợt, từ Việt Bắc, qua Bắc Kinh và Moskva, về đến Berlin. Mặt khác, Erich Frey, bí danh Nguyễn Dân, và Georges Walter, bí danh Hồ Chí Thọ, về tới Áo vào tháng năm 1951; cũng năm đó, Rudy Schröder và Walter Ullrich tức Hồ Chí Long về tới Berlin vào tháng 11. Riêng Erwin Borchers còn ở lại Hà Nội đến năm 1965. Dưới đây chủ yếu tôi sẽ nói về Schröder, Frey, và Borchers là ba người đã sống với Việt Minh từ 1945 đến đầu thập niên 1950, để tìm hiểu những động cơ nào đã dẫn họ tới quyết định tham gia kháng chiến Việt Nam, cảnh ngộ của họ lúc ở Việt Nam cũng như khi trở về châu Âu giữa thời kì chiến tranh lạnh.

III – Bối cảnh lịch sử

Peter Scholl-Latour, nhà báo Đức từng tham gia binh chủng nhảy dù của quân đội thực dân Pháp, đã kể lại chuyến đi của ông sang Đông Dương cuối năm 1945, trên một con tầu chở quân mà Pháp mượn được của Anh. Tàu đến Hồng Hải thì “gặp từng đoàn tàu đi ngược chiều, trở về châu Âu, cờ chiến thắng phất phới bay trên cột buồm. Đứng chen chúc trên boong là những cựu chiến binh người Anh từ mặt trận Miến Điện trở về quê hương trong cảnh thanh bình...”. Những binh sĩ Anh hạnh phúc ấy chế nhạo toán chiến binh thuộc địa chậm chân, hét to : “Các cậu đi nhầm chiều rồi”[11]... Đất nước (Pháp, và cả Hà Lan nữa) vừa được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, mà họ lại dấn thân vào con đường ngược chiều lịch sử. Sau khi bị sỉ nhục trong cuộc thế chiến, họ muốn giành lại vinh quang quá vãng ở các nước thuộc địa. Phái hữu cũng như phái tả, kể cả Đảng Cộng Sản lúc đó là đảng lớn nhất ở Pháp, đều nhất trí như vậy. Ý đồ ấy, xét trên bình diện lịch sử, là một hoài vọng, xét trên bình diện đạo lí, là phi nghĩa, nhưng đối với tướng De Gaulle, cần phải làm vậy để tạo dựng nên một huyền thoại quốc gia mới nhằm khắc phục sự chia rẽ trong quá khứ còn gần kề, để xây dựng một khối đoàn kết quốc gia mới, khả dĩ gột rửa quá khứ trong kí ức tập thể dân tộc.
Tháng sáu 1940, nước Pháp đầu hàng Đức. Chính quyền Pháp ở Đông Dương lâm vào thế cô lập, không thể nào chống lại sự bành trướng của Nhật Bản, và từ giữa năm 1941, họ đã hợp tác với Nhật Bản. Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương, lúc đó ở Hoa Nam, theo dõi tình hình trong nước và chờ đợi thời cơ Nhật Bản thất bại để Việt Nam có thể được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của ngoại xâm. Tháng năm 1941, họ thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, tức là Việt Minh, một mặt trận dân tộc cứu quốc, tập hợp mọi thành phần giai cấp, nhưng quyền lãnh đạo nằm trong tay người cộng sản.
Năm 1940, “hàng ngàn người, chiến sĩ cộng hoà Tây Ban Nha vừa thất bại sau cuộc nội chiến, Do Thái Đức tị nạn chế độ Hitler, Ba Lan thất trận sau cuộc Blitzkrieg” đã gia nhập đội quân Lê Dương.[12] Đối với họ, Lê Dương vừa là nơi ẩn náu, vừa là cơ hội tiếp tục cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít Đức-Nhật. Cũng như quân đội Pháp trong thời kì ấy, các đơn vị Lê Dương chia ra hai phe: một bộ phận nhỏ đứng về phía Kháng chiến, còn đa số quy thuận chế độ Vichy.
Trên mặt tiền ngôi nhà chung cư của tôi ở Quận 10 Paris, có gắn hai tấm cẩm thạch mang tên hai thanh niên kháng chiến đã ngã xuống đây hồi tháng 8 năm 1944. Sau ngày giải phóng Paris, nhiều du kích thuộc FFI (Lực lượng kháng chiến quốc nội) đã hợp thành những trung đoàn để chiến đấu bên cạnh FFL (Lực lượng nước Pháp tự do, dưới quyền lãnh đạo của tướng De Gaulle). Một phần các lực lượng khởi nghĩa này ngả về phe tả, nếu không nói là cộng sản, hăng hái và quyết tâm cải tạo thế giới, không chấp nhận lập lại Nhà nước tư sản. Sau ngày Đức đầu hàng (8 tháng năm 1945), nhiều thanh niên đã đăng kí vào Đạo quân viễn chinh Pháp tại Viễn Đông
(CEFEO), tưởng rằng để giải phóng châu Á khỏi ách phát xít Nhật.
Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám 1945. Ngày 2 tháng chín 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập và thành lập một chính phủ đoàn kết dân tộc (dưới sự lãnh đạo của Việt Minh). Binh sĩ trẻ trong CEFEO, nhất là những thanh niên đã tham gia kháng chiến, bèn được giải thích rằng các phần tử bản xứ cuồng tín chống Pháp, tức là bọn Việt Minh, được quân Nhật bại trận tiếp sức, muốn chiếm đoạt Đông Dương, cho nên phải quét sạch những băng đảng này ở thuộc địa, cũng như trước đây đã phải giải phóng nước Pháp khỏi ách thống trị của bạo quân quốc xã : “Ở đây, lại xảy ra cái cảnh tượng mà các bạn đã trải nghiệm. Trước mặt các bạn là một bọn chó má, phải tận diệt chúng như các bạn đã tận diệt bọn Đức”[13].

IV – Những người chống phát-xít tị nạn ở Paris – Con đường dẫn họ vào Lê Dương

Người Đức trong đội quân Lê Dương luôn luôn chiếm một tỉ lệ cao. Họ được coi là những người lính Lê Dương gương mẫu , kỉ luật, dũng cảm, hung hãn và luôn luôn “sẵn sàng nhận lệnh”.[14] Nhưng điều này không đúng tí nào đối với những thanh niên Đức sang Pháp tị nạn từ sau năm 1933, trong đó chỉ có một số ít gia nhập Lê Dương trong thời gian 1933-39, bởi vì “những người bị chế độ nazi bức hại..., do thành phần xuất thân, trình độ học vấn... và nghề nghiệp của họ, cũng như do chính kiến và thể chất, không mấy tương ứng với mẫu lính lê dương tiêu biểu, thường xuất thân từ những giai cấp bên dưới... ít học..., tứ cố vô thân, đi làm thuê trong nông nghiệp hay công nghiệp, nay đây mai đó”[15].
Trên cơ sở các đạo luật của nền Đệ tam Cộng hoà Pháp ban hành năm 1938 và 1939, khi chiến tranh bùng nổ, tất cả những người Áo và Đức từ 17 đến 65 tuổi đều bị đưa vào các trại tập trung, bất luận họ theo phát xít hay chống phát xít, du khách, viên chức hay doanh nhân. Đàn ông phải vào trại ngay từ tháng chín 1939, còn đàn bà bị đưa vào Vélodrome d’Hiver (Trường đua xe đạp mùa đông ở Paris) vào tháng năm 1940, khi chấm dứt thời kì “chiến tranh kì quặc”, rồi sau đó, họ bị đưa vào các trại Milles và Gurs ở miền nam nước Pháp. Trong năm 1939, có 1171 người Đức bị tập trung đã đầu quân vào Lê Dương, và chỉ trong mấy tháng đầu năm 1940, số đầu quân đã lên gấp đôi. Người ta ước tính có khoảng 3000-3500 người Đức trong trại tập trung đã đầu quân trong thời kì 1939-40, và khoảng 5000 tù binh Đức đã gia nhập Lê Dương trong thời gian từ tháng tám 1944 đến cuối năm 1946.[16]
Câu chuyện cuộc đời của Rudy Schröder quê quán ở thành phố Köln (Đức) cho thấy một chuỗi dài những ngẫu nhiên đã đưa đẩy ông vào Lê Dương, rồi bước sang hàng ngũ Việt Minh, trở về Đông Đức, rồi cuối cùng chạy sang Tây Đức. Nó cũng cho thấy là cái cách xếp loại “chống phát xít”, “cộng sản” đã được sử dụng một cách quá dễ dãi để giải thích theo thuyết “tất định” hành trình của một con người...
Trong tự truyện của mình, nhà chính trị học và triết gia Raymond Aron (từ năm 1930 đến 1933 làm trợ lí giảng dạy Pháp văn ở Trường đại học Köln) đã viết như sau : “Tại Cologne (tên tiếng Pháp của Köln, chú thích của N.D.) tôi được gặp một sinh viên trẻ làm tôi rất cảm mến, đó là Rudy Schröder. Cha anh buôn bán áo mưa và ô dù. Trong thời gian ở Đức, tôi đã chơi rất thân với Rudy. Anh ta tởm lợm chủ nghĩa quốc xã. Hai năm sau, anh chạy sang Paris và sống vất vưởng cho đến ngày khai chiến. Lúc đó, anh đầu quân vào Lê Dương, rồi khi chiến tranh chấm dứt, tôi được tin... ở Đông Dương anh đã chạy sang hàng ngũ của Hồ Chí Minh. Một hôm, trên tờ Le Figaro, tôi đọc thấy một bài báo... nhan đề Tên đại tá SS Rudy Schröder… Tôi có tìm cách viết thư liên lạc nhưng có lẽ anh không hề nhận được. Năm 1946, ông bà thân sinh hỏi tôi có tin tức gì không; khoảng 1960, nghe người Đức nói anh làm giáo sư Trường đại học Leipzig. Nếu anh vẫn còn sống ở Đông Đức, tôi cũng muốn gặp lại anh. Tôi khó tin rằng cuộc sống đã biến được anh thành một đảng viên cộng sản trung kiên. Song việc anh đã đào ngũ khỏi Lê Dương và từ bỏ chế độ của Pháp ở Sài Gòn hay Hà Nội không làm tôi ngạc nhiên; vả lại tôi nhân danh cái gì mà trách anh?”.[17] Tuy có một vài tiểu tiết sai lệch, mấy dòng vừa trích của một người cựu kháng chiến đã tóm tắt những chương chính trong cuộc đời của Rudy Schröder, chỉ thiếu chương hồi cuối là năm 1959, ông trốn sang Tây Đức. Tiếc thay, hai người bạn thâm giao ấy đã không bao giờ gặp lại nhau.
Ý nghĩa cuộc đời của Schröder vượt quá phạm vi cá nhân – và điều này cũng đúng đối với những người khác mà tôi sẽ đề cập ở đây. Như tôi đã nói ở trên, nó minh hoạ lịch sử đau khổ của nước Đức, nước Pháp và của nước Việt Nam thế kỉ XX. Schröder là người miễn cưỡng “đổi tuyến”. Nếu không vì hoàn cảnh chính trị đẩy đưa thì rất có thể ông đã trở thành giáo sư một trường đại học Đức, có quan hệ chặt chẽ với những đồng nghiệp người Pháp, viết dăm ba cuốn sách về xã hội học, chính trị và văn học, hay lịch sử văn hoá và viết những bài tiểu luận tuyệt vời trên các báo hay tạp chí.
Schröder sinh năm 1911 tại Köln (Cologne), mang nặng dấu ấn của quá khứ văn minh La Mã của thành phố này – tính tình ông bay bướm, hưởng lạc, khiếu thẩm mĩ tinh tế, đồng thời say mê tìm hiểu, truy hỏi, khám phá những mâu thuẫn của cuộc sống. Hai mặt đối ngẫu ấy có thể dẫn tới bệnh trầm cảm và bất mãn sâu sắc nếu đương sự không được trọng thị trong xã hội. Trong bản Lý lịch Đảng viên (có lẽ viết vào tháng ba 1950), Schröder khai thành phần xuất thân của mình là Tư sản.[18] Thời gian này, ông dùng bí danh Lê Đức Nhân, cũng có người chỉ biết ông dưới cái tên Đức là Kerkhof(f). Thời sinh viên, ông học xã hội học, tiếng Pháp và văn học Đức, tham gia Phái cộng sản sinh viên (KOSTUFRA).[19] Lúc đó, thầy học của ông là người Do Thái, bị bọn quốc xã cho “về hưu”,[20] Schröder đã ngang nhiên mang bó hoa tới tặng thầy. Tờ báo nazi Der Stürmer đã lớn tiếng thoá mạ, coi ông là kẻ thù của chế độ, là cộng sản và thân Do Thái. Mặc dầu hoàn cảnh lúc đó, đối với chàng thanh niên Schröder, di cư sang Paris không phải là một đại hoạ, mà là cơ hội thực hiện một ước muốn sâu xa nhất. Tại trường Sorbonne, ông đỗ ngay ba, bốn chứng chỉ cử nhân, làm việc bán phần cho Viện xã hội học Frankfurt lưu vong tại Paris với cương vị trợ lí cho nhà tư tưởng lớn Walter Benjamin.[21]
Trong một lá thư tháng mười một 1939 viết từ New York, Max Horkheimer nói tới “Herr Schröder (như là) một nhà bác học trẻ hết sức thông tuệ. Chúng tôi hi vọng sẽ tranh thủ để ông trở thành một đồng nghiệp khoa học xuất sắc”.[22] Về mặt vật chất, cuộc sống rất chật vật. Để có thể sống qua ngày đoạn tháng, Schröder phải đi làm thêm trong một xưởng dệt, có lúc phải vác những tấm thảm đi gõ cửa rao bán từng nhà.
Một người bạn hồi đó, Fritz Meyer, bị giam cùng trại tập trung với Schröder. Năm 2003 ở Paris, ông Meyer kể lại cho tôi: khi tới sân vận động Colombes (ngoại ô tây bắc Paris, chú thích của ND), họ được người ta nói rõ là họ sẽ ở mãi sau hàng rào kẽm gai cho đến ngày chiến tranh kết thúc, trừ phi là họ đăng kí đầu quân vào đội Lê Dương; ai “tình nguyện” đầu quân thì gia đình sẽ không bị đưa đi tập trung. Sau này, Schröder viết: “Chỉ nghĩ tới việc vợ tôi và cháu bé chưa đầy một tuổi thôi nôi phải vào trại an trí là tôi thấy không tài nào chịu nổi rồi”.

V – Từ Paris đến Hà Nội qua Sidi Bel Abbès

Thật ít có khả năng Schröder và Borchers quen nhau từ Paris... Erwin Borchers sinh năm 1906 tại Strasbourg, người vùng Alsace gốc Đức. Cha ông làm thợ tiện trước khi trở thành quân nhân, là người nước Phổ. Mẹ ông quê vùng Alsace, thuộc một gia đình sống bằng nghề trồng nho. Gia đình Borchers như vậy là một gia đình sống ở vùng giáp ranh giữa hai nước, bị xâu xé giữa hai quốc gia và giữa hai chủ nghĩa quốc gia. Con người ở đây dễ bị lâm vào thảm kịch “cái gì của con người cũng bị chính trị hoá”, có nguy cơ ngày mai là anh hùng... (và) ngày kia biến thành tên phản quốc”[23] chỉ vì muốn bám trụ ở một vùng đất bị hai chính quyền đối nghịch tranh giành...
Trong bản lí lịch viết năm 1966 tại Berlin, Borchers cho biết cha ông hết mực ủng hộ hoàng đế Đức khi lên đường ra trận tham gia Đại chiến thế giới lần thứ nhất, đến khi trở về đã thành người ủng hộ chế độ cộng hoà và chủ nghĩa hoà bình, điều này đã tác động sâu sắc khiến ông trở thành khuynh tả. Năm 1918, khi tỉnh Alsace-Lorrraine trở lại thành lãnh thổ Pháp, gia đình ông di cư sang Đức. Chàng Borchers “ngay từ thời con trai, đã bị chính trị ám ảnh” (Lilo Ludwig) “lãng mạn” dài dài (Susanne Borchers) theo học các môn Pháp văn, Đức văn và sử học, nuôi mộng trở thành nhà giáo, và tham gia nhóm xã hội chủ nghĩa. Khi Hitler lên cầm quyền, Borchers là thành viên một nhóm tuyên truyền bí mật, in và rải truyền đơn chống nazi. Bị tố cáo và bị công an thẩm vấn, Borchers lánh sang Pháp, tiếp tục theo học đại học ở Aix-en-Provence và Paris, năm 1936 tốt nghiệp cử nhân văn học và ngữ văn Đức. Ông già Borchers, một người cha độc đoán, thấy con trai bỏ nước ra đi thì không vừa lòng chút nào, vì đối với ông, đó là một hành động phản bội tổ quốc. Là công dân Đức, Erwin Borchers không được tuyển dụng vào giáo giới Pháp, phải đi làm công ở hiệu sách Biblion, phố Bréa. Xin gia nhập quân đội Pháp để chiến đấu chống Nazi thì bị từ chối, vì lấy chồng Đức là “mẹ anh đã phản bội Tổ quốc Pháp”.[24] Erwin Borchers bị đưa vào trại tập trung Colombes ngày 3 tháng chín 1939, tại đây, anh kí giấy đầu quân vào Lê Dương. “Đối với tôi, trong thời kì chiến tranh, phục vụ trong hàng ngũ Lê Dương là một điều có thể chấp nhận được về mặt chính trị, vì Lê Dương nằm trong quân đội Pháp, khách quan mà nói, là một lực lượng của khối đại đồng minh chống Hitler mà Liên Xô là thành viên... Lê Dương đang đối đầu với Hitler ở Narvik, ở Monte Cassino và trên nhiều mặt trận khác...”.[25] Đúng là ở thời điểm 1939, đạo quân Lê Dương mang hào quang chống phát-xít.
Schröder và Borchers được gửi tới Sidi-Bel-Abbès để gia nhập Trung đoàn 5 Bộ binh Ngoại quốc (R.E.I.). Schröder
nghe tin vợ con phải di tản từ Paris xuống miền nam nước Pháp, cảm thấy bất lực, không làm gì giúp được gia đình, ông viết : “cái mà trước đây được coi là không bao giờ có thể, khi nó đổ lên đầu, từ từ từng chút, rồi ào xuống như thác lũ, thì cuối cùng cái kinh hoàng nhất bỗng trở nên tất yếu, tự nhiên”.[26] Ông còn nói tới “sự hoàn toàn vô tích sự”, “sự ngu xuẩn, tàn bạo và thô tục trong cuộc đời” của “tên lính Lê Dương Schröder, nguyên là phu đào huyệt, nay làm lính dắt la kiêm ‘ông già khố đế’” để nói rằng chỉ còn sống nhờ những bức thư của vợ con.[27] Đầu năm 1941, uỷ ban đình chiến Đức tới trại Lê Dương, yêu cầu phải dẫn độ toàn bộ lính Lê Dương người Đức. Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Lê Dương chỉ chịu nhận dẫn độ những ai tự nguyện xin về Đức sống dưới chế độ Reich thứ III. Tướng Maxime Weygand, tổng đại diện của Pétain ở Bắc Phi, tìm cách bảo vệ những binh lính Lê Dương người Đức; theo đề nghị của ông, Biệt đội Ma, gồm “khoảng một trăm phần tử đối lập với chủ nghĩa quốc-xã là những người đặc biệt dễ bị truy bức... cộng thêm mấy đào binh của quân đội Wehrmacht”,[28] được đưa sang Đông Dương trước khi họ bị Uỷ ban đình chiến Đức bắt được. Điều này chứng tỏ, ngay trong nội bộ của những hệ thống tư tưởng, “phán đoán từng cá nhân cũng phải uyển chuyển và căn cứ vào hành xử của mỗi người”.[29]
Ngày mồng 1 tháng tám 1941, trên tàu Cap Pandaran ghé bến Madagascar, Schröder viết cho vợ một lá thư dài, kể rằng ngày 4 tháng bảy, ông cùng khoảng một trăm người đã lên tàu ở cảng Dakar. Ông khoe đã đánh cuộc với “B” – chắc là Borchers – về một động từ bất quy tắc hiếm có trong tiếng Latinh, và “anh đã được cuộc”. Đọc Bergson và Hobbes. “Bọn anh ở chen chúc dưới hầm tàu,... nhưng người An Nam còn ở khổ hơn thế”. Họ cập bến Sài Gòn ngày mồng 3 tháng mười một, rồi mấy ngày sau, đi xe lửa ra bắc, đến Việt Trì, cách Hà Nội 80 km về phía tây-bắc.[30]
Chẳng mấy lúc, Borchers và Schröder mất hết ảo tưởng về phong cách chính trị - quân sự của đội quân Lê Dương. Toàn quyền Decoux ngày càng áp đặt nhãn quan “cách mạng quốc gia” và “suy tôn chiến sĩ” theo đúng đường lối của Pétain. Đó không phải là bầu không khí dân chủ và chống phát-xít họ chờ mong, mà giống như bầu không khí mà họ đã trốn tránh. Vấn đề chống Nhật không đặt ra vì Decoux đã kí kết thoả ước chấp nhận sự chiếm đóng của quân đội Nhật Bản, như Pétain đã kí kết với Đức ở bên Pháp. Lí do Decoux nêu ra là để duy trì Đông Dương cho nước Pháp. Borchers và Schröder đã nhận thức ra thực tại của chế độ thực dân và được biết người An Nam đang hoạt động kháng chiến ở vùng Đông Bắc. Tổ chức kháng chiến còn phôi thai của Pháp tại Đông Dương thì chủ trương Đông Dương phải trở về trong lòng đế quốc Pháp, do đó họ từ chối mọi sự hợp tác với Việt Minh và dân chúng trong công cuộc kháng Nhật. Ngày 9 tháng ba 1945, Nhật đảo chính, Pháp thua... Việt Minh kêu gọi cùng nhau kháng chiến chống Nhật, rồi kêu gọi bình đẳng và độc lập, phía Pháp không hiểu ra. Ngay đến năm 1946, khi Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng nội vụ, đón chào Leclerc, tổng tư lệnh Pháp, bằng câu : “Là người kháng chiến Việt Nam, tôi xin chào một người Pháp kháng chiến vĩ đại...”,[31] cũng vẫn thế.
(còn tiếp)
Heinz Schütte
© Thời Đại Mới
(Nguyễn Ngọc Giao biên dịch từ nguyên tác tiếng Pháp)

CHÚ THÍCH
[1] Bài này (có sửa lại chút ít) đã được trình bày tại cuộc hội thảo về những hàng binh người Đức đi theo Việt Minh (thập niên 1940-50) tổ chức tại Viện Goethe (Hà Nội) trong hai ngày 8 và 9 tháng giêng 2004.
[2] Kính tặng hương hồn Georges Boudarel (GB). Cuộc đời của GB in sâu dấu ấn của Việt Nam kể từ năm 1949 khi ông 24 tuổi. Trong những năm qua, ông đã khuyến khích tôi tiếp tục nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tinh thần mà ông vẫn theo đuổi : đoàn kết phê phán. Militant và học giả, GB là một trong những người Pháp đầu tiên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
[3] Điện của E. Honecker gửi Nguyễn Văn Hướng, đại diện Việt Nam ở Praha, 20 tháng hai 1950. Thư khố quốc gia Bundesarchiv (BA) : DY 24/3691
[4] Leo Zuckermann gửi Wilhelm Pieck, Berlin 9 tháng sáu 1950. BA : NY 4182/1269
[5] W. Ulbricht gửi Hermann Axen, 29 tháng ba 1951. BA : NY 4182/1269
[6] Bộ trưởng Mielke gửi Tổng thanh tra Gutsche. Berlin, 5 tháng tư 1951. Bundesbeauftragter für die Unterlagen des Staatssicherheitsdienstes der ehemaligen Deutschen Demokratischen Republik (Thư khố của Bộ công an cũ Stasi) (B St U) : MfS-BdL/Dok. Nr. 003670
[7] Verwaltung Gross-Berlin, Abtlg. II, gez. Herbst, tháng hai 1957, Arbeitsrichtlinie. B St U : MfS AS 1310/67, trang 000015
[8] Nhật kí của R. Schröder 6 juillet, 6 tháng tám và 23 tháng chạp 1950. Fonds Maria Schröder (FMS)
[9] Eckart Michels, Deutsche in der Fremdenlegion. Mythen und Realitäten. Paderborn 1999, tr. 160
[10] BA: NY 4090/488
[11] Peter Scholl-Latour, Der Tod im Reisfeld. Dreißig Jahre Krieg in Indochina. München 1988, tr. 29.
[12] Wilhelm Reschl, Europas letzte Söldner, in : DAMALS, 2/96, tr. 69.
[13] Jean-Luc Einaudi, Viêt-Nam! La guerre d’Indochine (1945-1954), Paris 2001, tr. 133.
[14] Jean-Pierre Hallo, Monsieur Légionnaire. L’homme et ses traditions. Paris 1994, tr. 29, trích dẫn theo Michels, sđd., tr. 190.
[15] Michels, sđd., tr. 104
[16] Michels, sđd., tr. 119 và 164
[17] Raymond Aron, Mémoires, Paris, Julliard 1983, tr. 72/73
[18] FMS
[19] Lebenslauf des Schröder, Reiner, Josef, Rudy. Berlin 9 tháng mười một 1951, in: B St U: Ddn. AIM 808/59, tr.000058-000063
[20] Leo Spitzer gửi Raymond Aron. Cologne 24 tháng chín 1933, trong : Thư khố riêng của Raymond Aron, hộp 209, với sự cho phép của Dominique Schnapper và Elisabeth Dutartre.
[21] Klaus Brill gửi Max Horkheimer, New York. Paris 31 tháng ba 1936, trong: Max Horkheimer, Gesammelte Schriften, vol. 15: Briefwechsel 1913-1936. Frankfurt am Main 1995, tr. 504
[22] Max Horkheimer gửi Raymond Aron, Paris. New York 20 tháng mười một 1936, trong: Horkheimer, sđd., tr. 729