Trang nhà > Lịch sử > Cổ đại > Triệu Quang Phục
Triệu Quang Phục
Chủ Nhật 27, Tháng Mười Hai 2009
Xem mục lục ở sau Lời mở đầu Việt Nam khai quốc
Khi Lý Bí phải rút vào thung lũng Khuất Liễu sau khi bị Trần Bá Tiên đánh bại ở hồ Điển Triết vào năm 546 thì Triệu Quang Phục, con trai của Thái Phó Triệu Túc trở thành lãnh tụ kháng chiến trong đồng bằng sông Hồng. Triệu Quang Phục lập bản doanh trên một bãi đất nằm giữa khu đầm lầy ở Chu Diên mà nhân dân thường gọi là Đầm Nhất Dạ. Nơi đây theo truyền thuyết dinh thự thần tiên của công chúa Tiên Dung, con vua Hùng Vương, và phò mã Chử Đồng Tử một đêm kia đã bay về trời.
Đầm Nhất Dạ đúng là một nơi ẩn náu lý tưởng vì nếu đội quân nào không thông thạo đường lối ở trong đầm do hệ thống kinh rạch chằng chịt, mà cả gan kéo vào sẽ bị lạc lối, không biết đường đi nữa, và sẽ bị các chiến sĩ của Triệu Quang Phục bất thần xuất hiện và tấn công.
Triệu Quang Phục, theo sử sách ghi lại, đã tập hợp được tới 20.000 quân dưới quyền chỉ huy của ông. Ban ngày thì quân sĩ ẩn nấp ở trong đầm, nhưng đến đêm, ông cho quân ra phục kích, tịch thu lương thực, giết và bắt sống vô số quân nhà Lương, xong rồi lại rút nhanh vào chỗ an toàn trong đầm trước khi quân địch kịp thời đối phó.
Chiến thuật du kích này, theo các nguồn sử liệu Việt Nam, đã khiến Trần Bá Tiên phải than rằng: “Thời xưa, đây là đầm “nhất dạ thăng thiên” (ý ông muốn nhắc đến truyền thuyết lâu đài bay lên trời), nhưng bây giờ là đầm của bọn “nhất dạ đạo tặc”. Dù Trần Bá Tiên có thể chỉ coi Triệu Quang Phục như một tướng cướp, nhưng đối với nhân dân Việt Nam, Triệu Quang Phục lại là một vị anh hùng dân tộc đáng kính. Việc Triệu Quang Phục đặt bản doanh trên địa điểm từng ghi dấu huyền tích cũ không đơn thuần là tượng trưng mà còn mang một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều đối với niềm tin của dân chúng.
Có hai biến cố quan trọng góp phần vào sự nổi dậy thành công của Triệu Quang Phục. Thứ nhất là sau cái chết của Lý Bí thì rất nhiều bộ hạ của Lý Bí đều hướng về Quang Phục như là người lãnh đạo mới. Thứ hai là việc Hầu Cảnh chiếm ngôi nhà Lương và giết Lương Vũ Đế vào năm 549 khiến Trần Bá Tiên phải nhanh chóng quay về Bắc. Một điều nữa không kém phần quan trọng là phương cách mà Triệu Quang Phục chính thống hoá quyền hành của ông như được trình bày sau đây.
Theo truyền thống và phong tục bản xứ, Triệu Quang Phục cho thiết lập một bàn thờ lớn ở giữa đầm, hương khói nghi ngút để vọng hồn các anh linh. Lòng thành của ông được đáp ứng khi Chử Đồng Tử cưỡi rồng vàng giáng trần và bảo ông rằng: “Tuy ta đã về tiên giới từ lâu rồi, nhưng hồn ta vẫn quanh quẩn nơi đây. Vì biết được thành tâm của ngươi và thấy ngươi hết lòng cầu khẩn, nên ta cảm thông, xuống giúp ngươi trong công việc dẹp yên rối loạn này”. Thế rồi Chử Đồng Tử rút ra một cái móng của con rồng vàng, đưa cho Triệu Quang Phục và phán tiếp: “Hãy đặt cái móng rồng này lên chóp nón của ngươi, từ nay đường ngươi đi sẽ dẫn đến thành công”. Nói xong, Chử Đồng Tử hoá vào đám mây và biến về trời. Sau đó Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng vương đất Việt và lấy hiệu là Dạ Trạch Vương.
Trong huyền tích này, Triệu Quang Phục tự khoác lên vai mình cái quan niệm đế vương rút tỉa từ những ý niệm của nhân dân về vấn đề chính thống trong chính trị. Việc Chử Đồng Tử hiện xuống phù trợ cho ông hàm ý rằng Triệu Quang Phục sẽ là một vị vua bảo tồn Phật Giáo, tôn giáo đã có từ thời Sĩ Nhiếp. Tư tưởng tôn giáo này có thể đã chưa xuất hiện vào thời Quang Phục, nhưng có lẽ đã phát triển sâu rộng hơn trong những thế kỷ sau, dưới ảnh hưởng của Phật Giáo và Lão Giáo vì các sử liệu cho thấy vào khoảng thế kỷ thứ 15 thì Chử Đồng Tử đã thành một hình ảnh quan trọng trong điện thờ các danh thần của Lão Giáo Việt Nam. Thật vậy, nguồn lịch sử cũ nhất về huyền tích này không nói gì đến Chử Đồng Tử mà chỉ nói đến một con rồng vàng. Việc lấy cái móng rồng làm tiêu biểu cho sự bất khả chiến bại và cho chủ quyền chính trị là mang màu sắc và âm hưởng của câu chuyện móng rùa mà ngày xưa đã từng đem lại quyền lực cho An Dương Vương bẩy thế kỷ rưỡi trước đó. Triệu Quang Phục đã khôn khéo sử dụng các huyền sử của Việt Nam trước khi bị Trung Quốc đô hộ để thu phục lòng dân và quân sĩ.
Dương Phiêu, người được phong Thứ Sử Giao Châu, và từng đi theo Trần Bá Tiên vào Giao Châu cũng không được nhắc đến nữa. Trong khi đó thì sử Việt Nam lại nói đến một vị tướng quân là Dương Sàn mà Trần Bá Tiên lưu lại khi ông đem quân về Bắc. Có thể Dương Sàn và Dương Phiêu là một nhưng bị lầm tên chăng? Sau khi Bá Tiên rút khỏi miền Nam và mải mê lo loạn Hầu Cảnh ở miền Bắc thi Triệu Quang Phục đã nhân thời cơ đánh bại và giết được Dương Sàn. Tàn quân Lương sống sót đều chạy cả về Bắc khi Triệu Quang Phục thu hồi được thành Long Biên và đem lại thái bình thịnh trị cho đồng bằng sông Hồng.
Trong khi đó, Lý Thiên Bảo, người anh lớn của Lý Bí, đem quân bao vây Lương quân ở Ái Châu nhưng bị Trần Bá Tiên đánh bại vào năm 547 và sau đó phải chạy trốn lên núi. Theo sử liệu Việt Nam, Lý Thiên Bảo thua chạy và dừng chân ở thung lũng Đà Năng, thượng lưu sông Đào, nơi được trời phú cho đất đai phì nhiêu và dân cư phồn thịnh. Ở đó Thiên Bảo cũng xưng là vua và lấy hiệu là Đào Lang Vương. Khi ông chết năm 555 vì bệnh, ông được một người họ hàng là Lý Phật Tử lên kế ngôi.
Năm 557, Lý Phật Tử đem một đạo quân xuống núi để đánh Triệu Quang Phục, đòi kế ngôi Lý Bí, và tự xưng là Nam Việt Vương. Sau những trận đánh kéo dài tại quê hương Lý Bí, Lý Phật Tử công nhận Triệu Quang Phục mạnh hơn và xin hoà. Về phần Triệu Quang Phục thì cho rằng vì dù sao Lý Phật Tử cũng là họ hàng của Lý Bí nên đồng ý chia đôi quyền lực đồng bằng sông Hồng. Lý Phật Tử được chia quận Tân Xương, vùng đất đai ở mạn Tây sông Hồng và đóng đô ở Ô Diên, phía Tây Hà Nội ngày nay. Còn Triệu Quang Phục thì giữ lại mảnh đất nông nghiệp ở phía Đông Giao Chỉ.
Những diễn biến kể trên liên hệ như thế nào với tình hình rối ren ở miền Bắc thì không có gì khó hiểu. Mặc dù rời Giao Châu từ năm 548, mãi đến năm 550 Trần Bá Tiên mới vượt được qua vùng núi phía Bắc và tiến vào lưu vực sông Dương Tử. Thời gian này, Triệu Quang Phục đã nắm lấy thời cơ đánh bại nốt những đám quân Lương còn sót lại của Trần Bá Tiên và chiếm trọn đồng bằng sông Hồng. Tiêu Bột ở Quảng Châu thì thế lực quá yếu ớt vì quá mải miết với những âm mưu của ông nên chả có ảnh hưởng gì đến Giao Châu. Năm 554, Vương Lâm đột nhiên kéo quân về nơi bây giờ là Quảng Tây và phong cho một bộ hạ của ông là Lưu Nguyên Yển chức Thứ Sử Giao Châu. Quang Phục và Nguyên Yển có thể đã chạm trán với nhau, nhưng có lẽ Nguyên Yển đang để hết tâm trí về miền Bắc, nên năm 555 ông lại kéo cả tùy tùng lên tiếp ứng Vương Lâm trong cuộc tranh giành quyền lực của hoàng tộc Lương.
Năm 557 là năm có thay đổi chính trị ở khắp Trung Quốc. Cũng cần nhắc lại vì Trần Bá Tiên tiếm ngôi nhà Lương lập nên nhà Trần nên Tiêu Bột sai Âu Dương Nguy đem quân tấn công nhưng thất bại. Tiêu Bột bị thuộc hạ Trần Pháp Vũ, cựu Thứ Sử Hàng Châu và Thứ Sử danh dự Cửu Đức, giết chết. Sau khi được Trần Bá Tiên tha và phục hồi chức vụ thì Âu Dương Nguy đem quân về miền Nam nhưng vừa về đến nơi thì Vương Lâm nổi loạn. Từ năm 557 đến 560, Âu Dương Nguy phải đương đầu với thực lực mạnh nhất của Vương Lâm vào lúc ấy trong vùng Quảng Tây bây giờ và giáp giới Giao Châu. Triệu Quang Phục ở vào thế lưỡng đầu thọ địch, một bên là quân nhà Trần, còn bên kia là Lý Phật Tử. Có thể vì sự bất mãn ngày càng tăng trên miền Bắc mà ông buộc phải để yên cho Lý Phật Tử hiện diện ở đồng bằng sông Hồng, và cũng có thể vì lý do này mà Phật Tử dám đưa quân ra khỏi vùng núi ông đang ẩn náu.
Cũng có giả thiết cho rằng việc Viên Đàm Hoãn, Thứ Sử Giao Châu, bí mật chuyển một số vàng đến cho Âu Dương Nguy, là một trong những kế sách của Triệu Quang Phục nhằm mua chuộc Âu Dương Nguy để chống lại Vương Lâm vì rất có thể việc nổi loạn của Vương Lâm đem lại lợi thế cho Lý Phật Tử. Viên Đàm Hoãn có thể là đại diện của Âu Dương Nguy tại triều đình Triệu Quang Phục và là trung gian tiếp xúc giữa Quang Phục với Âu Dương Nguy. Sau khi vụ Vương Lâm kết thúc, người kế vị Đàm Hoãn là Âu Dương Thịnh có thể đã tiếp tục vai trò ấy mặc dầu, theo sử sách, công việc duy nhất của ông được chép lại trong thời gian ông làm Thứ Sử lại là ở trên miền Bắc. Cũng có thể là thời kỳ này Viên Đàm Hoãn chẳng dính dáng gì đến tình hình ở Giao Châu cả. Trong những năm 560, những “sứ giả” được đổi xuống Giao Châu và lưu trú ở đó thì phần lớn chỉ là để hành nghề thương mại. Chúng ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng, Triệu Quang Phục, bằng cách nào đó, đã liên minh với gia đình Âu Dương bởi vì theo sử liệu Việt Nam, ông mất ngôi vào lúc Âu Dương Hốt nổi dậy rồi bị giết chính vào lúc có cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác.
Triệu Quang Phục mất ngôi được nhớ đến mãi qua một huyền thoại tương tự như An Dương Vương. Cả hai sự kiện đều gần giống như nhau ngoại trừ tên tuổi của người đóng vai chính, và chiếc móng rồng thay cho cái nỏ có lẫy làm bằng móng rùa. Theo lập luận nêu ra ở thế kỷ 6, người con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang cũng lấy con gái của Quang Phục là Cao Nương và được phong làm phò mã. Nhờ có Cao Nương nên Nhã Lang lấy cắp được móng rồng, mà theo truyền thuyết Chử Đồng Tử đã trao cho Triệu Quang Phục, và thay thế bằng một cái móng rồng giả. Sau đó Nhã Lang đem móng rồng thật về cho cha mình là Lý Phật Tử. Thế rồi chiến tranh lại tái phát, Triệu Quang Phục bị thua ở khắp mọi nơi vì không còn móng rồng thần nữa. Khi chạy ra tới bờ biển thì ông được thần rồng vàng nổi lên đón về Thủy cung.
Việc nhắc lại huyền tích cũ này hàm ý giải thích những thăng trầm của Triệu Quang Phục và khơi lại những giá trị văn hoá bản xứ Việt đã tồn tại trước khi bị Trung Quốc đô hộ cũng như những biểu tượng văn hoá đặc thù khác. Nhưng quan trọng nhất là việc lần đầu tiên Triệu
Quang Phục lấy hiệu vua có ý nghĩa từ tiếng bản xứ chứ không dùng tên gọi theo ý nghĩa Trung Quốc như Lý Bí đã làm trước đó. Triều đại Triệu Quang Phục đã để lại ấn tượng sâu đậm trên tâm tư người dân bản xứ nhưng chỉ có Lý Bí và Lý Phật Tử được sử Trung Quốc nhắc đến, còn Triệu Quang Phục thì không. Họ Lý được Trung Quốc nói đến vì tổ tiên là người Trung Quốc và đã làm việc với Bắc Triều với tư cách là Phụ Tá Biên Thùy được bổ nhiệm. Rõ ràng họ Triệu đã đi sát với văn hoá bình dân bản địa và mang sắc thái riêng của Phật Giáo Giao Chỉ nên Trung Quốc không muốn nhắc đến.
Triều đại của Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục bị kết liễu có thể liên quan đến cuộc viễn chinh vào năm 570 của Nguyễn Trác. Vào thời gian này trong khi Triệu Quang Phục phải đối phó với mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc thì Lý Phật Tử lại được hưởng lợi từ những biến cố ấy. Lý Phật Tử có thể đã liên minh với Nguyễn Trác để chống Quang Phục, hoặc đơn giản rằng ông đã chỉ xuất hiện sau khi Quang Phục và Nguyễn Trác đã đẩy nhau vào tình trạng kiệt quệ. Những người Lao mà, theo sử liệu Trung Quốc, hay tụ tập nhau lại để cướp phá Giao Châu vào thời gian có cuộc viễn chinh của Nguyễn Trác, có thể đã có quan hệ với Lý Phật Tử vì những người Lao này đã từng liên minh với Lý Bí, họ hàng của Lý Phật Tử. Về sau, rất có thể Lý Phật Tử đã nhờ họ giúp đỡ để chống lại Triệu Quang Phục. Nếu đúng là như thế, ta có thể giả thuyết rằng cuộc chinh phạt của Nguyễn Trác là nhằm mục đích giúp Triệu Quang Phục, nhưng bằng chứng dẫn đến tình huống này lại quá ít nên không thể kết luận chắc chắn được.
Tác giả: Keith Weller Taylor
Chuyển ngữ: Lê Hồng Chương
Source: Damau.org
Xem online : Lý Phật tử và sư tổ Tỳ ni đa lưu chi (chương 4, phần 4)