Phan Quang

Toàn quyền Đông Dương (1897-1902) Paul Doumer

Cầu Long Biên trước năm 1945 gọi theo tên viên toàn quyền Pháp Paul Doumer - người chính thức quyết định xây cầu này. Nó được xây nhanh tới mức báo chí Pháp phải đánh giá “đáng kinh ngạc”: 3 năm 9 tháng. Cầu trước hết phục vụ vận tải đường sắt và là một công trình kỳ vĩ (trước năm 1945 được coi là cây cầu dài nhất Đông Dương), tạo thêm một nét đặc trưng cho thủ đô Hà Nội.

Những vụ lụt cao nhất thế kỷ 20 đều không ảnh hưởng đến lưu thông đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Cầu Long Biên được thiết kế bởi các kỹ sư của một nền công nghiệp tiên tiến đương thời

Biết bao công sức của người thợ Việt Nam (ít nhất 3000 người, theo hồi ký của P. Doumer) đã đổ vào đây. Cây cầu đã góp phần vào sự phát triển kinh tế thủ đô và của cả nước. Cầu Long Biên lưu giữ những kỷ niệm vô giá, trước hết là máu và mồ hôi của công nhân cầu đường và những người dân Việt Nam đóng thuế.

Từ nhà báo thành nghị sĩ

Paul Doumer xuất thân từ một gia đình lao động, bố làm công nhân xe lửa. 12 tuổi, Paul đã phải đi kiếm sống, làm thợ khắc, sau đó vào học trường dạy nghề. Chàng thanh niên Paul là người có nghị lực, năm 20 tuổi đỗ bằng cử nhân Toán học. Năm sau lấy tiếp bằng cử nhân luật, trở thành chuyên gia tài chính. Sau một thời gian ngắn dạy học, ông ra làm báo, gia nhập Đảng Cấp tiến Pháp, được bầu làm nghị sĩ của đảng này và từ đó bước vào chính trường.

Gia đình Doumer được ngợi ca về lòng yêu nước. Ông có 5 con trai thì 4 người chiến đấu và hy sinh trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Bản thân P. Doumer là Quốc vụ khanh, thành viên Hội đồng Chiến tranh do Tổng thống Pháp chủ trì. Ông làm Chủ tịch Ủy ban Kinh tế của hội đồng này.

Từ người viết báo trở thành nghị sĩ nhờ quan điểm chính trị cấp tiến, P. Doumer bắt đầu có quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn tài chính, công nghiệp. Tham gia làm việc trong Chính phủ, ông chuyển lập trường sang phía hữu tuy không rời bỏ Đảng Cấp tiến. Năm 1895, làm Bộ trưởng Tài chính, P. Doumer ban hành thuế thu nhập. Từ những quan hệ nơi hậu trường, ông rời Chính phủ sang Đông Dương làm toàn quyền. Lúc này thực dân Pháp đang lâm vào tình huống cực kỳ khó khăn, đặc biệt tại Việt Nam.

Nhiều sứ mệnh

Cuối thế kỷ 19, với việc ép buộc triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Thân 1884, thực dân Pháp về cơ bản coi như áp đặt được chế độ thống trị lên toàn Việt Nam, ít lâu sau chiếm gọn Campuchia và Lào. Chúng chia cắt Việt Nam thành 3 xứ, gộp với 2 nước láng giềng, hình thành cái gọi là Đông Dương thuộc Pháp cai trị theo 5 chế độ khác nhau.

Từ Nam chí Bắc, các cuộc nổi dậy vũ trang của dân ta khi sôi động, khi âm ỉ không một lúc ngừng. Thực dân Pháp một mặt đàn áp vô cùng dã man, mặt khác lôi kéo, mua chuộc một số người cầm đầu thiếu kiên định, làm cho các phong trào tạm lắng (trừ khởi nghĩa Yên Thế). Tình hình Việt Nam tiếp tục bất ổn cho thực dân. Trong khi đó, gánh nặng tài chính ngày một đè lên ngân sách chính quốc tới mức không chịu đựng nổi. Phong trào nhân dân Pháp phản đối các cuộc chiến tranh giành thuộc địa vì vậy càng thêm sôi sục.

Nhà chính khách - chuyên gia tự nguyện giã từ ghế Bộ trưởng đi làm một viên chức cấp cao ở thuộc địa nhằm cứu vãn và cải thiện tình hình, P. Doumer có sứ mệnh: Hoàn thành cuộc “bình định” bằng bất cứ giá nào, xây dựng bộ máy cai trị thực dân thay thế chế độ cai trị của triều đình nhà Nguyễn và để nhanh chóng đẩy mạnh khai thác tài nguyên, bóc lột sức lao động người bản xứ, lấy tiền bù đắp những “hy sinh” của chính quốc nhiều năm trước đó.

Đẩy mạnh hết mức 3 sắc thuế

Có thể nói, trừ sứ mệnh đầu tiên khó làm tròn (bởi cho dù tạm thời lắng xuống, chẳng bao giờ ngoại bang có thể “bình định” cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc ta), những nhiệm vụ sau quan toàn quyền làm khá tốt.

Với chủ trương tập trung hoá quyền lực, xây dựng bộ máy cai trị thống nhất, P. Doumer lập các tổng nha chuyên môn lo việc quản lý ngành dọc toàn cõi Đông Dương. P. Doumer tạo điều kiện thu hút nhân lực đang thất nghiệp ê hề ở chính quốc sang làm việc tại Đông Dương với chế độ cực kỳ ưu đãi, trong khi lại hạn chế đào tạo và sử dụng viên chức người bản xứ vì “khó tin cậy”.

Việc chia cắt Việt Nam được đẩy mạnh cả về danh nghĩa và trên thực tế. Nam Kỳ là thuộc địa. Trung Kỳ là đất bảo hộ - tiếng là do quan lại Nam triều cai trị song viên khâm sứ Pháp là người quyết định cuối cùng, bởi tên này chủ trì Viện Cơ mật, đứng trên đầu các thượng thư đại thần! Một nhà nghiên cứu Pháp thời ấy đã mỉa mai: “Từ nay, các vị trong Viện Cơ mật của triều đình đều trở thành những con rối bọc trong nhung lụa, vàng son nhưng đều có sợi dây nối với đầu 5 ngón tay điều khiển cực kỳ thành thạo của quan khâm sứ”. Bắc Kỳ theo Hiệp ước Giáp Thân là xứ bảo hộ, song vai trò quan Kinh lược sứ thay mặt nhà vua cai quản vùng đất này, cho dù về hình thức, bị bãi bỏ luôn, thay vào đó là vai trò viên Thống sứ Pháp. Hệ thống quan lại người bản xứ ở Bắc Kỳ do Thống sứ Pháp toàn quyền bổ nhiệm, thuyên chuyển, nhà vua chẳng có quyền hành gì.

Dưới triều đại P. Doumer, 3 sắc thuế được đẩy mạnh hết mức là thuốc phiện, muối và rượu. Của cải bòn rút từ người dân qua 3 sắc thuế ấy đóng vào ngân sách thuộc địa tăng từ 20 triệu đồng Đông Dương năm 1899 lên 33 triệu đồng Đông Dương năm 1902, rồi vọt lên 42 triệu đồng Đông Dương năm 1911. Lợi nhuận của Ngân hàng Đông Dương cũng tăng theo chiều thuận với tăng thuế.

Theo một nhà sử học Pháp, “công tích chính của Doumer tại Đông Dương” là tăng thuế. Ở Trung Kỳ, thuế thân và thuế ruộng đất trước ngày ông tới Việt Nam nhậm chức mới 83.000 đồng Đông Dương, sau đó vọt lên 2 triệu đồng Đông Dương năm 1899 - năm thứ 2 nhiệm kỳ toàn quyền. Ở Bắc Kỳ, 2 sắc thuế ấy cũng tăng nhanh, đạt gần 5 triệu đồng Đông Dương năm 1907. Trong khi đó, mọi loại thuế má người Pháp làm việc tại Đông Dương phải đóng góp vào ngân sách vỏn vẹn có 9.000 đồng Đông Dương/năm!
Ở Nam Bộ, công cuộc khai thác và tập trung hoá ruộng đất đẩy nhanh hết cỡ: Từ 522.000 ha ruộng lúa năm 1880 tăng vọt lên 1.175.000 ha trong 10 năm sau. Lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long trở thành nguồn xuất khẩu lớn nhất châu Á.

Trên thực tế, P. Doumer đã tạo dựng cơ sở để khi chiến tranh thế giới nổ ra, nước Việt Nam nghèo đói phải oằn mình cho “rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc”, phục vụ chiến thắng của mẫu quốc. Có thể dẫn thêm vô vàn ví dụ, tất cả đều dựa vào tư liệu của các nhà kinh tế học và sử học Pháp.

Công tích và những động cơ ẩn giấu

Trong thời gian hơn 5 năm ở Việt Nam, P.Doumer cho xây dựng một số công trình giao thông vận tải và công nghiệp. Ông hết sức nhiệt tình với việc thiết lập đường sắt xuyên Đông Dương và từ Hà Nội vươn dài nối với Côn Minh - Trung Quốc, tới mức báo chí Pháp mỉa mai gọi Doumer và thuộc cấp là “những người theo Chủ nghĩa đường sắt”. Toàn quyền Doumer đích thân chỉ đạo quy hoạch, thiết kế và thường xuyên đôn đốc xúc tiến công trình đầy khó khăn kéo dài nhiều năm, mãi tới 1937 mới hoàn thành.

P. Doumer cho mở mang cảng Hải Phòng làm đầu cuối của tuyến đường sắt nối vùng cao Tây Nam Trung Quốc với duyên hải Bắc Bộ Việt Nam. Ông cho lập một số nhà máy điện. Dưới nhiệm kỳ ông, Hà Nội trở thành thành phố đầu tiên ở châu Á được chiếu sáng bằng ánh điện. Ông khuyến khích nhập giống cây cao su miền Nam nước ta, lập nên những đồn điền lớn do người Pháp làm chủ, tạo nguồn hàng xuất khẩu. Ông nhanh chóng đồng tình với kiến nghị của bác sĩ Yersin - người khám phá cao nguyên Langbian, lập thành phố Đà Lạt...

Nhờ những công tích ở Đông Dương, sự nghiệp chính trị của P. Doumer lên như diều được gió. Trở về Pháp, ông được bầu làm Chủ tịch Hạ viện, quay lại làm Bộ trưởng Tài chính một thời gian rồi trở thành Chủ tịch Thượng viện. Năm 1931, ông được bầu làm Tổng thống thứ 14 nước Cộng hoà Pháp.

Khách quan mà xét, những cấu trúc hạ tầng P. Doumer chủ trương xây dựng tại Việt Nam đã góp phần mở mang nước ta về kinh tế, xã hội, văn hoá. Chúng ta ghi công P. Doumer về những gì hữu ích ông để lại đất nước này.

Tuy nhiên, cần đi sâu tìm hiểu đâu mới thực là những động cơ thôi thúc vị viên chức, chính khách P. Doumer năng nổ đến thế. P. Doumer từng là thành viên Hội đồng quản trị Tổng Công ty Điện lực Pháp CGE. Ông được sự ủng hộ của nhiều tập đoàn công nghiệp và giao thông vận tải, trong số này có Tập đoàn Eiffel, mang tên nhà thiết kế và xây dựng tháp Eiffel Paris cùng nhiều công trình khác nổi tiếng thế giới. Dễ thấy tại sao quan toàn quyền quan tâm đến việc mở đường sắt, làm cầu sắt, xây nhà máy điện... tại Đông Dương.

Toàn quyền P. Doumer chấp nhận kiến nghị của bác sĩ Yersin mở thành phố Đà Lạt là nhằm xây dựng ở nơi khí hậu trong lành một cơ sở nghỉ ngơi cho viên chức, sĩ quan Pháp tại Đông Dương. Càng dễ hiểu tại sao Đà Lạt trước năm 1945 có hai thời kỳ phát triển rất nhanh, tương ứng với hai cuộc chiến tranh thế giới, khi các viên chức, sĩ quan Pháp ở Đông Dương không thể ung dung đáp tàu về chính quốc nghỉ phép hằng năm!

Phan Quang