ĐƯỜNG LÂM LÀ ĐƯỜNG LÂM NÀO ? – TÌM VỀ QUÊ HƯƠNG NGÔ CHÂN LƯU (kỳ 1)

Khuông Việt Ngô Chân Lưu (932 – 1011)[3] được coi là vị Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vị trí của ông đối với Phật giáo Việt Nam cũng như sự nghiệp dựng nước và giữ nước trải suốt hai triều Đinh Lê đã không ngừng được khẳng định đời này qua đời khác trong các tài liệu văn hiến Việt Nam. Tuy vậy, xung quanh thân thế và sự nghiệp của ông vẫn còn rất nhiều những điểm bị che mờ bởi sương khói lịch sử và sự ngộ nhận chồng chất qua các đời. Cho đến nay điểm cơ bản nhất, câu hỏi đầu tiên về con người Đại sư: “Quê hương Khuông Việt Ngô Chân Lưu ở đâu?” vẫn còn là một vấn đề chưa có thể minh giải trong một sớm một chiều.

Bài viết không có tham vọng chỉ qua một bài viết nhỏ có thể đưa ra kết luận cụ thể nào, chỉ mong qua việc chỉ chân các tài liệu cổ (chủ yếu là tài liệu cổ sử Việt Nam và cổ sử Trung Quốc) hòng phần nào có thể gợi mở một hướng khác trong hành trình đi tìm quê hương Đại sư Khuông Việt. Bài viết trình bày theo tuyến vấn đề, không câu nệ vào trình tự thời gian.

I. Giả thuyết 1: Khuông Việt Đại sư là người Cát Lợi (?)

1. Từ cơ sở sử liệu…

Tài liệu cổ nhất ghi thông tin về Cát Lợi là Thiền uyển tập anh 禪苑集英(TUTA) có chép: 常樂吉利鄉佛陀寺匡越大師(初名真流)吉利人也姓吳氏吳順帝之裔[4]. Nghĩa là: Khuông Việt Đại sư (vốn tên là Chân Lưu) chùa Phật Đà, hương Cát Lợi, Thường Lạc, người Cát Lợi. Họ Ngô, là hậu duệ của Ngô Thuận Đế. Từ đây có được 3 thông tin: [1]. Đại sư tu tập ở chùa Phật Đà, hương Cát Lợi, Thường Lạc; [2].Đại sư vốn có tên tục là Ngô Chân Lưu; [3]. Đại sư là người Cát Lợi. [4]. Là cháu của Ngô Thuận Đế. Theo cách hành văn của TUTA thì câu đầu tiên bao giờ cũng chỉ nơi tu tập của nhân vật được nhắc đến, tiếp theo là tên tục (nếu có), cuối cùng là quê hương bản quán, có thể khẳng định TUTA cho rằng quê hương Đại sư chính là ở hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc như đã nhắc đến ở trên. Sau TUTA, địa danh Cát Lợi xuất hiện lần đầu tiên trong tài liệu thành văn Việt Nam ở Đại Việt sử kí toàn thư 大越史記全書: 佃 匐 既 子 笵 盍 軍 氣 沮 奔 潰 于 北 江 吉 利 鄕 “Điền, Bặc đã chết. Quân Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi ở Bắc Giang”[5]. Đến đây, đã có một địa danh Cát Lợi ở Bắc Giang. Diên cách Bắc Giang trong lịch sử khá phức tạp và có phổ khá lớn, bao gồm cả một phần Sơn Tây ngày nay. Có lẽ ghi chú này cùng với một số chi tiết chép trong TUTA như chùa Phật Đà, núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ v.v… dẫn đến chuyện sử gia đời sau cho rằng đây chính là hương Cát Lợi mà TUTA đã đề cập đến và như vậy quê hương của Khuông Việt chính là tại nơi đây[6].

2. …..đến giả thuyết của Hoàng Văn Lâu…

Quan điểm này đã được hiện thực hoá qua bài Đi tìm địa chỉ Ngô Chân Lưu viết năm 1995 của Hoàng Văn Lâu. Bài viết giới thiệu tư liệu then chốt là hai tấm bia hiện đặt ở chùa Cửa Rừng, thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn (ngày nay): “Tấm thứ nhất ghi niên đại Chính Hoà thứ 12 (1691), tháng 8, có tên là Tư văn bi ký. Phần đầu bia ghi lời khấn tiên thánh, tiên sư và các tiên hiền của xã. Nguyên văn có đoạn: ‘Cung duy: Tiên thánh, Tiên sư tính bản xã Tiên hiền: Đinh triều Quốc sử Khuông Việt, Trần triều Thái thú Trịnh quân, chỉ huy nho Nguyễn công, tự Túc Hiên tiên sinh…’ Bia khẳng định Quốc sư Khuông Việt triều Đinh là tiên hiền của bản xã. Tấm bia do những người có chân khoa trường như Nguyễn Đăng Dụng, Nguyễn Cao Tuấn, Nguyễn Đình Quý, những người dự giáp tư văn như Nguyễn Phú, Ngô Vĩ… Hội trưởng Nguyễn Chính, xã trưởng Nguyễn Trần Ngôn… dựng lập. Nội dung bia có đoạn (dịch): ‘Nghe rằng: Tư văn dựng hay bỏ, liên quan đến thế đạo; phong tục tốt hay xấu, gắn liền với lòng người. Ấp ta trước đây văn vật, rất hanh thông, các bậc chân Nho nối nhau ra đời. Có người quyền to như quân sư Khuông Việt, cổ vũ phong hoá ở Kinh đô, có người chức trọng như vị chỉ huy Nho học, tưới nhuần mưa giáo nơi thôn xóm. Có người làm Thái thú giúp vua, có người cai trị nơi phiên trấn, cũng có người coi dân nơi phủ huyện. Trong triều, ngoài nội, cùng lúc được dùng; cha con, anh em nối nhau đỗ đạt. Dùng trong một nước thì chính sự hoàn thành; dùng ở một làng thì phong tục thuần mĩ. Chẳng những văn vật tốt đẹp mà cũng là dân phong hưng thịnh vậy!”’[7]. Cuối cùng tác giả đi đến kết luận: “với hai tấm bia có niên đại cách nhau 100 năm hiện còn giữ lại được (Tư văn bi ký dựng năm 1691 và Bản thôn tạo thạch bi ký dựng năm 1792), ta có thể khẳng định: quê quán của Ngô Chân Lưu, hiệu Khuông Việt đại sư, làm Tăng thống triều Đinh Lê, là ở thôn Đoài, xã Do Hạ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà (địa danh thế kỷ XVII – XVIII); mà trước đây, thời Đinh Lê, có tên là hương Cát Lợi” [8].

Trong bài viết Những văn bia ghi lại dấu tích và quê hương của Khuông Việt Đại sư tham gia hội thảo Quốc tế “Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập”, Phạm Thị Thùy Vinh cũng đi theo hướng khảo cứu của Hoàng Văn Lâu. Tác giả trình bày 5 tư liệu bi ký phát hiện tại Sóc Sơn. Bia thứ nhất là Tư văn bi ký[9] và Bản thôn tạo thạch bi ký[10] , tác giả cho rằng, hai bia này cho biết “quê hương của Khuông Việt Đại sư là thôn Đoài xã Da Hạ huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà xứ Kinh Bắc (thời Lê), nay là xã Thụy Hương huyện Kim Anh tỉnh Phúc Yên (thời Nguyễn) và đó chính là thôn Thụy Hương xã Phú Cường huyện Sóc Sơn thuộc Hà Nội ngày nay.”[11] Đây cũng là hai văn bia mà Hoàng Văn Lâu đã từng công bố. Ngoài hai văn bia trên, tác giả bài viết còn phát hiện thêm một bia tên Danh hoạn bi ký[12] dựng năm Bảo Đại nguyên niên (1926) đặt tại văn chỉ huyện Kim Anh xã Phù Xá Đông tổng Phù Xá huyện Kim Anh tỉnh Phúc Yên, bia này ghi: “Đinh triều Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu tiên sinh người xã Thụy Hương”[13] Qua việc khai thác các tư liệu trên, tác giả thể hiện quan điểm đồng thuận với kết luận của Hoàng Văn Lâu. Tuy nhiên, các bia này đều là tư liệu muộn từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX.

3.… và các phản đề.

Các cứ liệu nội chứng của TUTA mâu thuẫn với nhau

Có lẽ uy tín quá lớn của TUTA không cho phép người ta được hoài nghi tính chân xác của nó, ngay khi thông tin về Khuông Việt Đại sư được ghi trong sách này bản thân đã chứa đựng mâu thuẫn loại trừ nhau. Câu trước như đã dẫn ghi ông là “người Cát Lợi”, ngay câu sau đã viết ông là hậu duệ của Ngô Thuận Đế.

Ngô Thuận Đế vẫn được hiểu cách gọi tôn xưng của đời sau với Ngô Quyền[14]. Theo phả hệ họ Ngô, Khuông Việt Đại sư tên thật là Ngô Chân Lưu, là con trai cả của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập (vốn có tên là Xương Tỷ), cháu đích tôn của Ngô Quyền[15]. Như vậy, nguyên quán của Ngô Chân Lưu phải là quê của cha ông, của ông nội ông. Trong khi đó, trong số các tài liệu còn lại không thấy tài liệu nào chép quê của một trong hai ông trên có dính dáng đến hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc. Như vậy, hoặc là cả hai thông tin trên đều sai, hoặc là loại trừ lẫn nhau. Không thể xảy ra khả năng cả hai thông tin cùng đúng.

TUTA ghi chép về một hương Cát Lợi là quê của Ngô Chân Lưu, và một hương tên cũng như vậy lại được sử kí chính thống đặt về Bắc Giang thì việc đời sau mặc nhận Khuông Việt quê ở nơi đây là có thể hiểu được, nhất là việc ông tu tập tại địa phương này dường như không còn phải nghi vấn. Bỏ qua chi tiết Ngô Chân Lưu là hậu duệ của Ngô Quyền, Hoàng Văn Lâu đã đi tìm và chứng minh quê hương Khuông Việt qua việc công bố hai tấm bia tại huyện Sóc Sơn.

Sẽ không còn gì để bàn luận nếu như toàn bộ sử liệu chỉ có như vậy

Nhưng những ghi chép lịch sử nhiều khi không đơn giản một chiều. Chúng tôi đã phát hiện thêm một số tư liệu mới cho phép đưa tới một hướng suy nghĩ khác, phản biện thông tin mà Hoàng Văn Lâu đã dẫn. Những sử liệu mới phát hiện ấy, chúng tôi xin được trình bày cụ thể ở mục sau. Trước tiên, chúng tôi xin lý giải nội dung hai tấm bia mà Hoàng Văn Lâu phát hiện dưới góc độ văn bản học và tâm lý dân gian.

Thứ nhất, thời điểm dựng bia là thế kỉ XVII, XVIII, so với thời Ngô Chân Lưu là sau gần bảy trăm đến tám trăm năm. Hai tấm bia ấy được dựng tại chính địa phương mà ông dựng chùa tu hành lúc cuối đời. Đây cũng chính là nơi ông viên tịch[16]. Cho nên, suy luận theo tuyến tính: người tu hành ở Cát Lợi, hoá thân ở Cát Lợi; sinh thời từng là bậc Quốc sư, là bậc sư biểu cho cả Nho lẫn Phật, người ấy đáng được liệt vào một trong những nhân vật kiệt xuất nhất của thời đại… thế thì cái sự tự hào của của Nho sĩ hậu học, sự sùng bái tôn vinh của các tăng ni Phật tử đời sau, sự suy tôn coi Ngô Chân Lưu là Tiên hiền Tiên thánh của Cát Lợi là điều có thể hiểu được. Hãy khoan bàn đến việc quê hương Ngô Chân Lưu thực sự ở đâu riêng việc dùng thông tin đến 6, 7 thế kỉ về sau để xác định địa danh cho thời kì trước cũng là cách làm nên được cân nhắc lại.

Tuy nhiên, căn cứ vào ghi chép ngắn ngủi của TUTA, cũng như những cứ liệu văn bia mà Hoàng Văn Lâu và Phạm Thị Thùy Vinh công bố, có thể đi tới giả thuyết rằng: Cát Lợi[17] có nhiều khả năng chỉ là nơi Khuông Việt Ngô Chân Lưu tu hành và viên tịch.

Vậy quê của Đại sư thực sự ở đâu? Chúng tôi muốn chuyển hướng tìm tòi theo hướng thứ hai mà Hoàng Văn Lâu đã bỏ qua. Đó chính là thông tin Ngô Chân Lưu là hậu duệ Ngô Quyền.

II. Giả thuyết 2: Khuông Việt là người Đường Lâm?

Nếu coi những ghi chép của TUTA là đúng, rằng Khuông Việt Ngô Chân Lưu là di duệ của Ngô Quyền, thì điều đó có nghĩa là Đường Lâm là nguyên quán của ông. Giả thuyết này ngay từ khi thành lập đã vấp ngay phải một trong những vấn đề nan giải nhất của cổ sử Việt Nam trước thế kỷ X.

Đường Lâm ở đây là Đường Lâm nào?

Chúng ta đều biết địa danh Đường Lâm tại Sơn Tây ngày nay đã đi vào tiềm thức của hàng triệu người với tư cách là quê hương của Phùng Hưng và Ngô Quyền – hai vị vua lừng lẫy có công đầu trong việc giành lại quyền độc lập tự chủ của người Việt khỏi sự đô hộ của người phương Bắc. Nơi đây, còn tồn tại lăng mộ cũng như nhà thờ hai vị. Đường Lâm được coi là ngôi làng (sic) duy
nhất được công nhận là quần thể di tích cấp quốc gia, được nhà nước đầu tư trọng điểm về văn hoá và du lịch. “Đất hai vua” đã trở thành danh xưng thân thuộc, trở thành đất linh thiêng, đất tông miếu, đất hương hoả, mảnh đất tự hào của biết bao nhiêu người Đường Lâm nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Một ngôi làng nhưng mang vinh hiển của cả quốc gia và ngàn năm lịch sử. Điều đó gần như là chân lý không cần bàn cãi.

1. Đường Lâm – từ những ghi chép của sử gia triều Lê

Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書trước nay vẫn được coi là bộ sử chính thống, quan phương, cổ nhất, có giá trị nhất may mắn còn giữ lại được. Bộ sử này là sự lũy tích văn hiến qua nhiều triều vua Lê, khởi từ các vua Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông, mà văn bản chúng ta may còn lại được đến nay là bản in vào cuối thế kỷ XVII (1697). Bộ sử ấy có ghi mấy dòng đề cập đến địa danh Đường Lâm như sau: 姓 吳 諱 權 唐 林 人 世 為 貴 族 父 旻 為 本 州 牧 “Họ Ngô, tên húy là Quyền, người Đường Lâm, đời đời là nhà quý tộc. Cha là Mân làm chức châu mục ở bản châu”[18].

Thiên Nam ngữ lục 天南語錄 [19] – trường ca về lịch sử Việt Nam ra đời khoảng cuối thế kỷ XVII, ghi lịch sử từ thời Hồng Bàng tới thời Lê Trung Hưng. Đây là một tác phẩm được nhiều nhà nghiên cứu dùng làm tư liệu cơ sở để đối chiếu với các sách sử cổ khác. Sách này cũng biên chép một cách khá chừng mực như sau: “Quyền cũng Đường Lâm con dòng, cha làm Thái thú[20] lĩnh trong Nam thành (c.3141); Đường Lâm sinh có anh hùng, bấy chừ một đạo quân hùng trỗi hơn, Thằng Nguyễn Chính Bình Lam Sơn[21], Ở ra những nết đa đoan hại người. Bèn bảo em là Phùng Cai, anh hùng ta cũng chí trai tang bồng (Phùng kỷ, c.3041); Cùng Dương Tam Kha toan rằng: Đường Lâm trở lại thửa chưng trong đời (c.3254).”

ĐVSKTT cũng như Thiên Nam ngữ lục khi dẫn địa danh Đường Lâm không chú rõ Đường Lâm là ở đâu đã gây lúng túng cho sử gia đời sau khi tìm hiểu quê hương của Ngô Quyền, mặt khác, điều này cũng thể hiện sự cẩn trọng của sử gia Việt Nam đối với những thông tin họ chưa thể kiểm chứng, đối chiếu, nhất là ở thời kì Việt Nam còn chưa có nhà nước, chưa có biên chép sử, những thông tin về thời kì này, phần lớn dựa vào thư tịch cổ Trung Quốc. Điểm quan trọng nhất ở đây không phải bản thân địa danh Đường Lâm mà là thông tin cha Ngô Quyền là người Đường Lâm và làm chức châu mục ở bản châu. Như thế, Đường Lâm có thể là tên một châu, mà Ngô Mân làm châu mục. Vậy, câu hỏi đặt ra là châu Đường Lâm này là châu Đường Lâm nào[22]? Nó khác gì không so với xã Đường Lâm Sơn Tây (ngày nay)?

2. Đường Lâm ở Sơn Tây: kết luận của các sử gia nhà Nguyễn thế kỷ XIX

Từ những thông tin cẩn trọng trong các bộ sử của triều Lê, các sử gia đời Nguyễn thế kỷ XIX đã tiến hành khảo cứu sâu hơn về địa danh này. Sự khảo cứu ấy được trình bày như dưới đây.

Nguyễn Văn Siêu (1795-1872) trong Đại Việt địa dư toàn biên大 越 地 輿 全 編, Địa chí loại, quyển 5, tỉnh Sơn Tây, phủ Quảng Oai, huyện Phúc Thọ, tr. 402 có viết: “Xét huyện Phúc Thọ là đất Phúc Lộc đời xưa. Cựu sử chép rằng: Đường Lâm ở huyện Phúc Lộc. (Mà) Xét Đường địa lý chép rằng: châu Phúc Lộc có ba huyện Nhu Viễn, Phúc Lộc và Đường Lâm. Từ Hoan Châu đi về phía đông hai ngày đến huyện Ninh Viễn (tức Nhu Viễn) châu Đường Lâm. Đi về phía nam qua sông Cổ La hai ngày đến nước Hoàn Vương… Lịch triều hiến chương lại chép rằng:… ‘Nhu Viễn bây giờ là huyện Gia Viễn. Đường Lâm nay là đất huyện Hoài An, huyện Mỹ Lương…’ Nay xét sử cũ chép: Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng. Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ (xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền) có hai đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương. Còn có một bia khắc rằng: Bản xã đất ở rừng rậm, đời xưa gọi là Đường Lâm, đời đời có anh hào. Đời nhà Đường có Phùng Vương tên húy Hưng, đời Ngũ Đại có Ngô Vương tên húy Quyền. Hai vương cùng một làng, từ xưa không có. Uy đức còn mãi, miếu mạo như cũ. Niên hiệu đề là Quang Thái năm thứ 3 (Trần Thuận Tông-1390) mùa xuân tháng 2, ngày 18 làm bia này. Thì Đường Lâm là Phúc Thọ ngày nay, nên lấy sử cũ cũng như văn bia là đúng (văn bia thời Trần ở Sơn Tây). Xét lời chú trên này (của Đường địa lý) là thuyết sai lầm, xem Đường thư có một câu: ‘Phúc Lộc tiếp Hoan Châu’ có thể biết là lầm. Trí Châu có sông Trí, tức là xã Phúc Lộc đất Hà Thanh, Cầu Dinh ngày nay[23]. Nay tự đầu cõi huyện Hương Sơn đi thẳng đến thượng đạo Quảng Bình tức là châu Phúc Lộc cũ.”[24]

Đại Nam nhất thống chí大南ー統志 được Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn từ 1865 đến 1882 ghi huyện Phúc Thọ: “Đời Hán là đất huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ; đời Lê Quang Thuận gọi là Phúc Lộc, trước lệ phủ Quốc Oai; đời Cảnh Hưng đổi lệ phủ Quảng Oai; đời Tây Sơn đổi là Phú Lộc; bản triều, đầu đời Gia Long lại đổi là Phúc Lộc; năm Minh Mệnh thứ 3 đổi tên hiện nay, thuộc phủ Quảng Oai thống hạt.” Và “Xét sử chép: ‘Đường lâm ở huyện Phúc Lộc. Bố Cái Đại vương Phùng Hưng và Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm’ . Nay là xã Cam Lâm, huyện Phúc Thọ có đền thờ Bố Cái Đại vương và đền thờ Ngô vương, có văn bia đại lược nói: ‘bản xã đất ở rừng rú, xưa gọi là Đường Lâm, thời thuộc Đường có Phùng húy là Hưng, đến thời Ngũ đại có Ngô Vương húy là Quyền, hai vương cùng ở một ấp, việc ấy từ trước chưa có bao giờ…’ Cuối bài bia chép: ‘phụng mệnh làm văn bia năm Quang Thái thứ 3’. Như thế thì huyện Phúc Thọ xưa kia có Đường Lâm, Đường Lâm là tên xã không phải tên châu. Ngô Thì Sĩ nói: ‘Đường Lâm ở vào quãng huyện Hoài An và huyện Mỹ Lương’. Dư địa chí của Phan Huy Chú (1782 – 1840) nói: ‘Nha Viễn nay là Gia Viễn, Đường Lâm nay là đất hai huyện Hoài An và Mỹ Lương.”[25]

Đặng Xuân Bảng (1828 – 1910) trong Việt sử cương mục tiết yếu 越史綱目節要ghi: “Tân mùi, [791] (Đường Đức Tông, Trinh Nguyên năm thứ bảy). Mùa hạ, Phùng Hưng ở Đường Lâm, Phong Châu (Đường Lâm là tên xã; nay là xã Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, không phải là huyện Đường Lâm, châu Phúc Lộc [chú của dịch giả: nay là xã Cam Lâm, huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây] )”[26]

Có thể thấy dường như Nguyễn Văn Siêu là học giả đầu tiên[27] ấn định địa danh Đường Lâm thuộc về Sơn Tây, sau đó thông tin này đã được chính sử nhà Nguyễn công nhận (1882). Kể từ đây, Sơn Tây đã tồn tại như một mảnh đất hai vua. Đặng Xuân Bảng tiếp thu thành tựu của người đi trước, khi viết cuốn Việt sử cương mục tiết yếu ông đã chua thêm hai chữ Phong Châu vào sau địa danh Đường Lâm. Tư liệu đáng chú ý nhất là văn bia đời Trần được Nguyễn Văn Siêu dẫn lại. Tiếc rằng, đây là một văn bia ngụy tạo như chúng tôi chứng minh ở mục “4. Đường Lâm Sơn Tây: một chặng huyền sử thế kỷ XX” trong bài viết này[28]. Thứ hai, Nguyễn Văn Siêu đã không đặt sách mà ông gọi là Đường địa lý[29] (sic) đó trong hệ thống tư liệu đồng đại hữu quan quan trọng khác như Tân Đường thư, Cựu Đường thư, Việt điện u linh, An Nam chí lược v.v… (cụ thể xin xem mục 5 của phần này). Từ kết luận ban đầu của Nguyễn Văn Siêu tiến tới sự đồng thuận của các sử gia của triều Nguyễn, Đường Lâm – Sơn Tây đất hai vua, trải qua gần 150 nay đã trở thành chân lý, hơn nữa là tín niệm.

Người đầu tiên tỏ ý nghi ngờ về kết luận trên là học giả Đào Duy Anh trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, ông viết: “chúng tôi rất nghi ngờ những ghi chú ấy và nghĩ rằng rất có thể người ta đã lầm Đường Lâm là tên huyện đời Đường thuộc châu Phúc Lộc (Phúc Lộc châu có huyện Đường Lâm) thành tên xã Đường Lâm ở huyện Phúc Thọ”[30]. Sự nghi ngờ của Đào Duy Anh là khá thận trọng và tinh nhạy về cảm giác của một người lão thực về trong lĩnh vực cổ sử Việt. Dưới đây, chúng tôi tiến hành khảo cứu diên cách xã Đường Lâm (huyện Phúc Lộc, Sơn Tây), để phần nào vén dần bức màn của lịch sử.

3. Đường Lâm – Sơn Tây: lịch sử và diên cách

Xét về địa lí, xã Đường Lâm ngày nay thuộc thành phố Hà Nội, trước đó thuộc Sơn Tây, tỉnh Hà Tây. Một dải các tỉnh Hà Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc ngày nay thuộc các huyện Tây Vu, Mi Linh, Chu Diên của quận Giao Chỉ thời Tây Hán. Thời Đông Hán, chia huyện Tây Vu làm hai huyện Phong Khê, Vọng Hải. Thời Tấn, các huyện Tây Vu, Mi Linh, Chu Diên đều thuộc các quận Vũ Bình, Tân Xương[31]. Đến đời Lý thuộc phủ Đại Thông[32]. Đời Minh là huyện Long Bạt châu Đà Giang lộ Tam Giang[33]. Đào Duy Anh cũng cho một lịch trình diên cách hơi khác như sau: “Trấn Sơn Tây: Cương mục (Chb, q.21) chú rằng: đời Đinh Lê Lý là đạo Đà Giang; đời Trần chia làm các lộ Tam Giang, Tam Đới, Quảng Oai, Quốc Oai; năm Quang Thái thứ 10 (1397 ) đổi lộ làm trấn; thời Lê Sơ làm các lộ Quốc Oai thượng, trung, hạ, thuộc Tây đạo; năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đổi làm Thừa tuyên Quốc Oai; năm thứ 10 (1468) đặt làm thừa tuyên Sơn Tây; năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi làm xứ; trong đời Hồng Thuận làm trấn; đời Nguyễn đầu đời Gia Long lệ vào Bắc Thành; năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi làm tỉnh Sơn Tây, trích huyện Từ Liêm lệ vào tỉnh Hà Nội, huyện Tam Nông lệ vào tỉnh Hưng Hoá… Huyện Phúc Lộc: Nhất thống chí (Sơn Tây) chép rằng đời Cảnh Hưng đổi lệ vào phủ Quốc Oai; đời Tây Sơn đổi làm Phú Lộc, đầu đời Gia Long đổi làm Phúc Lộc; năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi làm Phúc Thọ. Hiện nay là Phúc Thọ tỉnh Hà Tây.”[34]

Ngay từ đời Lý, đã có ghi chép về việc người ở Cam Giá dâng hươu đen cho vua Lý Nhân Tông[35]. Cho tới tận đầu thế kỉ 19, đất Cam Lâm hiện nay còn có tên là Cam Tuyền (theo Các trấn tổng xã danh bị lãm各鎮總社名備覽 [36]), nhưng 60 năm sau đã thấy tên Cam Lâm xuất hiện trong Đại Nam nhất thống chí 大南一统志. Thế nhưng Cam Lâm này chữ Hán là 甘霖, chứ không phải là lâm 林 (rừng) trong Đường lâm 唐林.

Theo Thông điển[37] thì một dải từ Hà Nội, Bắc Ninh về phía tây đến Hà Tây, Phú Thọ khá ổn định nội thuộc Phong Châu thời Đường. Không có châu Đường Lâm nào trong vùng đó. Còn huyện Phúc Lộc của Sơn Tây chỉ là địa danh được lập vào đời Lê Thái Tông, cuối Lê đổi là Phú Lộc, đến đời Nguyễn địa danh này chỉ tồn tại từ năm 1803- 1821, khác hoàn toàn với châu Phúc Lộc/ hay châu Đường Lâm (có các huyện dưới cấp là huyện Nhu Viễn, huyện Phúc Lộc
và huyện Đường Lâm) thế kỷ VII- VIII – IX (như chúng tôi chứng minh qua các sử liệu ở mục 5.2 dưới đây).

4. Đường Lâm- Sơn Tây: một chặng huyền sử thế kỷ XX

Vậy tại địa bàn hiện nay được coi như là đất phát tích của hai vua – Đường Lâm (Sơn Tây), sự cải danh đã diễn ra như thế nào trong thế kỷ XX. Vấn đề này đã được tác giả Nguyễn Tùng (Paris)[38] bàn xét khá toàn diện trong bài Bàn thêm về quần thể làng cổ Đường Lâm đăng tải trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ngày 23 tháng 01 năm 2009. Có thể giản lược như sau: XÃ Đường Lâm (với tư cách là một đơn vị hành chính, dưới cấp huyện) là một tên mới đặt, bao gồm chín thôn (làng) trong đó có năm thôn cổ là Cam Thịnh, Mông Phụ, Đông Sàng, Cam Lâm và Đoài Giáp là đã được lập ra cách đây hơn 500 năm. Bốn thôn còn lại (Phụ Khang, Hà Tân, Hưng Thịnh và Văn Miếu) thì đều tách ra từ vài làng nói trên hoặc được lập ra cách đây chưa đến hai trăm năm. Đáng chú ý là ở thôn Cam Lâm từ mấy thế kỉ nay đã có đình thờ đình Phùng Hưng cũng như nhà thờ và lăng Ngô Quyền. Do vậy, chính quyền xã này cũng đã dựa vào các bằng chứng đó để xin Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đổi tên từ Cam Lâm thành Đường Lâm vào ngày 21-11-1964[39].

Tháng 8 năm 1967, trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 101), Trần Quốc Vượng đã có một bài viết rất quan trọng để khẳng định Đường Lâm thuộc Sơn Tây[40]. Điểm thú vị là ở chỗ đây là bài viết để phủ định ý kiến của Đào Duy Anh[41] và Văn Tân[42]. Tạm thời, chúng tôi không nghĩ đến những bối cảnh thầm kín của bài viết trên. Có thể coi đây là tiếng nói quan trọng nhất lúc bấy giờ để ra phán quyết cuối cùng về vấn đề này.

Cứ liệu quan trọng nhất mà Trần Quốc Vượng đưa ra là tấm bia mà ông gọi là “Bia Đường Lâm” có niên đại 1390 niên hiệu Quang Thái đời Trần. Bia tên là Phụng tự bi 奉祀碑 ký hiệu 36002 (Viện NC Hán Nôm), bia hiện đặt tại đền thờ Phùng Hưng (Sơn Tây). Tấm bia này đáng tiếc lại là một bia ngụy tạo vào đời sau. Thế nhưng hàng loạt các nhà sử học từ Nguyễn Văn Siêu cho đến Trần Quốc Vượng, Nguyễn Minh Tường[43], Vũ Duy Mền[44]… đều bị văn bản này đánh lừa [!?][45], trừ Nguyễn Tùng – một nhà sử học cư trú tại nước ngoài[46]. Dưới đây, chúng tôi xin nêu sơ lược kết quả giám định của mình về văn bản ngụy tạo[47] này:

Thứ nhất, về mặt thư pháp và văn tự học, chữ khắc trên văn bia đều là lối chữ chân nhỏ nhắn, quy củ và chuộng kỹ của triều Nguyễn, khác hẳn với thư pháp đời Trần qua một số văn bia thời này như thư pháp của Trương Hán Siêu[48].

Thứ hai, nét khắc của bia rất sắc nét, gần như không có chữ nào mờ. Lòng nét khắc vẫn theo đao bút hình chữ “v”, chứng tỏ văn bản mới chỉ khắc trong vòng 200 năm trở lại đây.

Thứ ba, về địa danh học, văn bia này dù cố gắng ngụy tạo, nhưng vẫn vô tình để lại tên địa danh thời Nguyễn. Dòng đầu của bia ghi: 國威府福祿縣甘泉社 “Quốc Oai phủ Phúc Lộc huyện Cam Tuyền xã”[49], dòng trên đồng thời cũng được khắc trên bia Phụng tự bi ký 奉祀碑記được khắc năm Tự Đức thứ 4 (1851)[50]. Qua khảo chứng về diên cách địa danh hành chính của Đào Duy Anh[51] thì đây có khả năng là bia ngụy tạo vào đời Gia Long hoặc Minh Mệnh, vì đến năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) Phúc Lộc đã đổi làm Phúc Thọ[52].

Thứ tư, về mỹ thuật, bia có cùng một phong cách với nhiều bia hậu đời Nguyễn: không có trang trí diềm, trán gần như để trơn, hoa văn chỉ có mặt nhật nét mảnh và tia lửa yếu ớt.

Thứ năm, về quy mô, văn bia này được dựng ở cấp độ thôn xóm, cho nên rất khiêm tốn về mặt kinh phí, điều này thể hiện qua dáng vóc xinh xắn và khiêm nhường của bia: chiều cao 54cm, rộng ngang 35 cm, tức là không bằng một tờ báo Nhân dân trải rộng. Điều này cho thấy, bia được dựng nằm ngoài điển lệ của triều đình. Điểm này làm rõ hơn động cơ của dòng niên đại “Quang Thái thứ 3” trong văn bia. Ngoài hai bia ấy, xã Đường Lâm hiện còn bia Sắc kiến Tiền Ngô Vương lăng 敕建前吳王陵, niên đại của bia này là Tự Đức thứ 27 (1874)[53], phong cách chữ viết cứng cáp và tú lệ hơn hai bia kia rất nhiều. Chứng tỏ người viết là bậc đao bút lại trong bộ Lễ triều đình. Dáng vóc và quy mô của bia chính thống được nhà nước dựng cũng khác hẳn “bia Đường Lâm”.

Thứ 6, về trật tự chữ, chữ viết trên ngạch bi đều ngang từ trái sang phải, trong khi ngạch bia đời Trần thường là sắp chữ dọc.

Tất cả các dấu hiệu trên cho thấy văn bia đang xét được dựng vào đầu đời Nguyễn.

Đến đây, chúng ta có thể xâu chuỗi các sự kiện như sau: [a] Bia ngụy tạo vào quãng 1802 đến 1821; [b] Dựa vào bia này Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định Cam Lâm vốn là Đường Lâm, quê của hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền; [c] Vua Tự Đức đã sai bộ Lễ công nhận đây là di tích cấp “quốc gia” và ban “sắc kiến” vào năm 1874; [d] Sau đó, “đất hai vua” chính thức được đưa vào chính sử vào năm 1882; [e] Đặng Xuân Bảng cẩn thận hơn nữa đã chú Đường Lâm thuộc về Phong Châu[54]. Nhầm lẫn của triều đình và các sử gia trong thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là có thể chấp nhận được, khi các quan biên tu triều Nguyễn không có quá nhiều thời gian và điều kiện để trực tiếp khảo sát địa phương, mà phần lớn các tư liệu đều do hệ thống nha lại các cấp ở dưới đưa lên. Tuy nhiên, ở hai thế kỷ sau đó, việc vô tình hay hữu ý, bất cập ở chuyên môn hay sự khéo léo trong câu chữ của các nhà làm sử đã viết tiếp trang huyền sử thời hiện đại cho mảnh đất này.

Trở lại với phương pháp của Trần Quốc Vượng, nếu như bia Phụng tự bi đúng là bia Quang Thái đời Trần, thì ông đã dùng sử liệu cấp hai để phủ định các sử liệu cấp một được viết vào đời Đường (như trên đã nêu). Mặc dù ông biết rất rõ rằng: “Theo các sử cũ, quả thật ở thời thuộc Đường (thế kỷ VII-X) miền đất nước ta có huyện Đường-lâm (đầu đời Đường là châu Đường-lâm rồi đổi thành quận Đường-lâm) thuộc châu Phúc-lộc (có cả huyện Phúc-lộc) thuộc phía nam tỉnh Hà-tĩnh ngày nay.”[55] Trong trường hợp văn bia đó là văn bia ngụy tạo vào đầu đời Nguyễn như chúng tôi đã chứng minh ở trên thì Trần Quốc Vượng đã dùng một sử liệu ngụy tạo để phủ định các sử liệu cấp một. Trong bài Đường Lâm dưới góc nhìn địa – văn hoá – lịch sử, Trần Quốc Vượng viết: “Có một chuyện, thật như bịa, bây giờ nghe ra thì khá buồn cười: Một số nhà nghiên cứu căn cứ vào cái tên Phúc Lộc bảo ở Hà Tĩnh xưa có huyện Phúc Lộc, có lẽ quê hương Ngô Quyền ở đó. Đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, kẻ ngu hèn này mới ở độ tuổi hai mươi đã phải viết một bài được cụ Trần Huy Liệu cho đăng trên Nghiên cứu Lịch sử, đầu đề là Về quê hương Ngô Quyền có hai trang để cải chính là quê hương Ngô Quyền ở Sơn Tây, nơi đó còn đền và lăng Ngô Quyền. Ý kiến này được tiếp thu ngay.”[56] Trên thực tế, lăng Ngô Quyền còn ở một số địa phương khác như Hưng Yên, Hải Phòng, Hà Tây cũ, Thanh Hoá; còn đền thờ các vị Phùng Hưng, Ngô Quyền thì có ở khắp nơi, hiện chưa có con số thống kê cụ thể. Mặt khác, các lăng mộ, đền thờ các nhân vật lịch sử này ở Đường Lâm có niên đại khá muộn. Sự công nhận của chính sử nhà Nguyễn cộng với tín niệm dân gian trải qua gần 200 năm, đã khiến cho bao nhiêu huyền tích đẹp đẽ cho mảnh đất hai vua được thêu dệt nên. Có vẻ như các nhà sử học Việt Nam thế kỷ XX-XXI, khởi từ Trần Quốc Vượng, đã coi di tích, huyền tích, sử liệu đời Nguyễn, cũng như niềm tin dân gian là bốn cứ liệu quan trọng nhất để đưa ra quyết định cuối cùng. Đặt dấu chấm hết cho những tranh luận trên phương diện cổ sử là việc cải tên xã Cam Lâm thành Đường Lâm khiến địa danh này trùng khít hoàn toàn với quá khứ 1000 năm trước về mặt danh xưng.

Tóm lại, tổng hợp sự khảo cứu về diên cách Đường Lâm- Sơn Tây của chúng tôi với kết quả nghiên cứu thực địa của Nguyễn Tùng, tạm thời có thể đi đến nhận định rằng: trong suốt chiều dài lịch sử hai ngàn năm từ đời Hán cho đến năm 1964, xã Đường Lâm dường như chưa bao giờ có tên là Đường Lâm.

(còn tiếp...)

Trần Ngọc Vương [1], Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương[2]

CHÚ THÍCH

[1] Trần Ngọc Vương: PGS. TS. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2] Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan: Thạc sỹ. Cán bộ Nghiên cứu Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

[3] Hiện nay có nhiều thuyết khác nhau về năm sinh của Ngô Chân Lưu. Phần lớn tài liệu cho là năm 933, Lê Mạnh Thát cho rằng ông sinh năm 930, Nguyễn Công Lý cho là năm 932 [Nguyễn Công Lý, Ý chỉ đoạn ngữ lục và bài kệ thị tịch của Khuông Việt thiền sư (kỷ niệm 1000 năm ngày viên tịch của thiền sư). Trong Kỷ yếu “Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập” do Giáo Hội Phật giáo Việt Nam và ĐH KHXH & NV, ĐH QG HN tổ chức, tháng 3 năm 2011, tr.121. Chúng tôi tạm theo thuyết cuối cùng.

[4] Thiền uyển tập anh 禪苑集英, In niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 đời Lê (1715), tr. 8b (bản số hoá).

[5] Đại Việt sử kí toàn thư 大越史記全書, (T1), Ngô Đức Thọ dịch chú. Nxb KHXH, H., 1998, tr. ?. Nội các quan bản, Chính Hoà 18 (1697), Bản kỷ, Q. 1, tr. 7a.

[6] Những chi tiết này đã được chúng tôi phân tích kỹ hơn trong bài viết Ánh xạ tín niệm dân gian vào sự thực lịch sử – trường hợp chỉ chân quê hương Khuông Việt Ngô Chân Lưu. Chúng tôi tạm không nêu lại dẫn chứng và lập luận tại đây.

[7] Hoàng Văn Lâu, Đi tìm địa chỉ Ngô Chân Lưu, Tạp chí Hán Nôm, số 1 (26) 1996, tr. 53-54.

[8] Hoàng Văn Lâu, bđd, tr. 54.

[9] Ký hiệu 6943 – 44 (Viện NC Hán Nôm).

[10] Ký hiệu 6939 (Viện NC Hán Nôm).

[11] Phạm Thị Thùy Vinh, Những văn bia ghi lại dấu tích và quê hương của Khuông Việt Đại sư. Kỷ yếu hội thảo Quốc tế “Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập”, sđd, tr. 285.

[12] Ký hiệu 16184 (Viện NC Hán Nôm)

[13] Phạm Thị Thùy Vinh, bđd, tr. 286. Ngoài các văn bia liên quan đến quê hương Khuông Việt trên, tác giả Phạm Thị Thùy Vinh còn công bố bia Sóc Sơn lễ tục kỷ đảo hội tịch thần tích cổ điển tập phổ tổng xã tạo năm Khải Định 6 (1921) hiện lưu tại đền Sóc xã Phù Linh huyện Sóc Sơn và bia Hoa Sơn tự bi tạo năm Cảnh Hưng 43 (1782) ký hiệu 6394 – 95 đặt tại chùa Hoa Sơn xã Chi Đông
huyện Kim Anh tỉnh Phúc Yên, nay là chùa Hoa Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Bia tại đền Sóc ghi về việc thần mộng của Khuông Việt. Còn bia Hoa Sơn ghi việc Khuông Việt từng tu hành đắc đạo tại chùa này. Việc khuông Việt đã từng tu ở đâu, dựng bao nhiêu chùa, chúng tôi xin được đề cập đến trong một bài viết khác.

[14] PGS.TS Nguyễn Quốc Tuấn trong hội thảo 1000 năm ngày mất Khuông Việt đã tỏ ra nghi ngờ về thông tin Ngô Thuận Đế chính là Ngô Quyền. Trong điều kiện tư liệu hiện nay, chỉ có TUTA là tư liệu duy nhất nói rằng Ngô Chân Lưu là hậu duệ của Ngô Thuận Đế, và nhóm dịch giả Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga theo vốn liếng lịch sử dày dặn của mình mà chú rằng Ngô Thuận Đế chính là Ngô Quyền. Đây có lẽ là một phán đoán phù hợp vì trong các nhân vật họ Ngô thời trước thời Ngô Khuông Việt, hiện chỉ biết được có Ngô Quyền xứng đáng được gọi là “đế”. Vì đây là chứng cứ duy nhất trong điều kiện tư liệu hiện nay và không có tài liệu thư tịch cổ nào khác trái chiều hoặc phủ nhận điều này. Như thế, ta tạm thời vẫn có thể coi đây là một thông tin sử liệu có thể dùng được. PGS.TS Trần Ngọc Vương đã rất có lý khi cho rằng: “Nếu nghi ngờ mà gạt bỏ đi hết thì cơ hồ chẳng còn mấy tư liệu mà nghiên cứu cả.” (trích lời phát biểu tại Hội thảo đã dẫn ở trên.)

[15] Phả hệ họ Ngô có dẫn tộc phả họ Ngô do Hán Quốc công Ngô Lan biên soạn năm Đinh Dậu, triều Lê Thánh Tông (1477) [hiện nay chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận văn bản gốc bản tộc phả này, vậy nên tạm thời dẫn theo nguồn như trên] đưa ra khẳng định Ngô Chân Lưu là dòng dõi Ngô Quyền cũng có nghĩa là gián tiếp khẳng định danh xưng trên chính là chỉ Tiền Ngô vương (tên gọi Ngô Quyền của sử gia đời sau). Trước khi có được tài liệu có tính khả tín cao hơn, chúng tôi đề xuất tạm chấp nhận tài liệu nêu trên.

[16] Tại địa phương hiện chưa tìm thấy tháp của ông, tại chùa Trấn Quốc cũng vậy. Phải chăng, thời gian đã quá xa xôi để tháp của ông có thể tồn tại đến ngày nay qua bao binh lửa lịch sử (?).

[17] Ông Nguyễn Hùng Vĩ có gợi ý cho chúng tôi về hướng nghiên cứu từ nguyên của địa danh Cát Lợi. Liệu có mối liên hệ nào không giữa địa danh Cát Lợi với một từ “cát lợi” mang một nội hàm Phật giáo nào đó. Với điều kiện kiến văn hiện tại còn hạn chế, chúng tôi tạm gác lại hướng này, mong các bậc thức giả có biết xin chỉ giáo cho.

[18] Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書 (T1), Ngô Đức Thọ dịch chú, Nxb KHXH, H., 1998, tr. 204. Nguyên văn Nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), Bản kỷ, Q.?, tr. 20b.

[19] Thiên Nam ngữ lục 天南語錄, Nguyễn Thị Lâm phiên âm và chú giải, Nguyễn Ngọc San hiệu đính, Nxb. Văn hoá, H., 2001.

[20] Thái thú: Ý nói Ngô Mân làm chức “châu mục bản châu”.

[21] Nguyễn Chính Bình: một số sách sử khác như Tân Đường thư, Cựu Đường thư ghi là Cao Chính Bình.

[22] Quan điểm Ngô Quyền là người châu Đường Lâm được cố súy bởi nội chứng lịch sử Việt Nam ấy chính là vào thời Thập nhị sứ quân, một người bà con cùng họ của Ngô Quyền là Ngô Nhật Khánh (người mà Việt sử lược chép lầm là Trần Nhật Khánh) đã nổi dậy chiếm cứ Đường Lâm. Thuận lẽ là người có thế lực ở đâu mới có thể nổi dậy tiếm quyền tại đó. Dòng họ Ngô đời đời làm chức mục bản châu thì những người họ hàng ắt ít nhiều có thế lực. Cha Ngô Quyền lĩnh chức mục châu Đường Lâm là cơ sở để Ngô Nhật Khánh sau này xưng hùng tại địa phương. Hơn nữa, Dương Đình Nghệ lĩnh Ái Châu đã gả con gái cho Ngô Quyền, dụng Ngô Quyền làm tâm phúc. Theo chúng tôi, giai đoạn này việc thông hôn đồng thời cũng là một hình thức củng cố thế lực, liên kết các tù trưởng/ hào trưởng địa phương. Không cơn cớ gì một châu mục lớn như châu mục Ái Châu lại gả con gái và dựa vào một người không tên tuổi, không thế lực ở mãi Sơn Tây (lúc ấy giờ thuộc địa giới Phong Châu). Quan điểm quê hương Ngô Quyền ở đâu đó gần châu Ái có lẽ là có cơ sở sử liệu của nó.

[23] Chỉ thời Nguyễn.

[24] Phương Đình Nguyễn Văn Siêu 方亭阮文超, Đại Việt địa dư toàn biên 大 越 地 輿 全 編, Tổ phiên dịch Viện Sử học, Nxb Văn hoá Thông tin, H., 1997, tr. 402. Nguyên bản ký hiệu VHv.1709/1-3, bản khắc in năm 1900.

[25] Quốc sử quán triều Nguyễn (1882), Đại Nam nhất thống chí 大南ー統志 (tập 4), Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1997, tr. 188 – 189.

[26] Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu 越史綱目節要, Hoàng Văn Lâu dịch chú giới thiệu, Nxb. KHXH, H., 2000, tr. 48.

[27] Sở dĩ nói ông là học giả đầu tiên vì lấy điểm mút cuối cùng là năm ông mất (1872) so với năm hoàn thành của Đại Nam nhất thống chí là 1882.

[28] Tập quán dùng văn bia hay cứ liệu khảo cổ học như một bằng chứng “không thể chối cãi” cho bất kỳ luận điểm lịch sử nào (ngay cả khi văn bia đó dựng hàng mấy trăm năm sau) là một phương pháp phổ dụng trong những năm qua. Hiện tượng này có thể thấy qua rất nhiều nghiên cứu lịch sử hiện nay. Ví dụ như, gần đây có một số nhà nghiên cứu căn cứ vào viên gạch đào được ở Hoa Lư có ghi mấy chữ “Đại Việt thành chuyên” để khẳng định nước ta vào đời Đinh chưa từng có tên nước là Đại Cồ Việt. Trong khi phương pháp C14 không thể cho biết chính xác khoảng thời gian trong vòng một hai trăm năm. Liệu đó có nhất thiết phải là gạch đời Đinh, Lê, tiền Lý hay là của các triều đại sau này trong rất nhiều lần trùng tu di tích?

[29] Chúng tôi tìm khắp trong Tứ khố toàn thư không tìm thấy quyển nào có tên là Đường địa lý. Có lẽ đây chỉ là cách gọi chung của Nguyễn Văn Siêu về những sách có biên chép về địa lý đời Đường. Hoặc giả sách đó có thật nhưng tại Trung Quốc từ lâu đã bị mất hay sở kiến của chúng tôi còn quá hẹp hòi.

[30] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hoá Thông tin, H. 2005 (tái bản), tr. 110.

[31] Tân Đường thư 新唐书 chép: “Phong Châu có các huyện Gia Ninh, Tân Xương. Gia Ninh có núi Tản Viên. Tân Xương có Kim Khê”. Đặng Xuân Bảng sau khi dẫn đoạn trên đã chua: “Nay (tk XIX) các đất phủ Lâm Thao, Quảng Oai của Sơn Tây cùng phủ Yên Bình của Tuyên Quang, phủ Tòng Hoá của Thái Nguyên đều là đất Phong Châu xưa”, Đặng Xuân Bảng, sdd, tr. 46.

[32] H. Maspéro, La Géographie Politique de l’Annam Sous les Lý, les Trần et les Hồ (Nghiên cứu về địa lý lịch sử thời Lý Trần Hồ). BEFEO. XVI, chuyển dẫn theo Đào Duy Anh, sđd. tr.120. Theo H. Maspéro, phủ Đại Thông bao gồm miền Sơn Tây, Hưng Hoá, ở phía Tây sông Hồng.

[33] Đào Duy Anh, sđd, tr.138 – 139. “Huyện Long Bạt: Nhất thống chí (Sơn Tây) chép rằng huyện Bất Bạt vốn là đất lộ Tam Giang, đời Trần về trước là huyện Lũng Bạt, nhà Minh vẫn theo. Nhưng Thiên hạ quận quốc chép rằng chính nhà Minh đổi Long Bạt làm Lũng Bạt.”

[34] Đào Duy Anh, sđd, tr. 180 – 181. Những khảo sát trên đây cho thấy những ghi chép diên cách địa lý về Sơn Tây cần phải hiệu chỉnh lại khá nhiều. Ví như: Sơn Tây quận huyện bị khảo ghi: “Huyện Phúc Thọ xưa là Đường Lâm, các triều Lý Trần cũng theo như thế”. Chuyển dẫn theo Huyện Phúc Thọ- làng xã và những di sản văn hoá (T1: Di sản Hán Nôm), Nguyễn Xuân Diện chủ biên, Nxb Hà Nội, H., 2010, tr. 34. Sơn Tây tỉnh chí ghi: “Đền Bố Cái Đại Vương: ở địa phận xã Cam Lâm huyện Phúc Thọ, thời cổ gọi là Đường Lâm”. Chuyển dẫn theo Nguyễn Xuân Diện, sđd, tr. 31.

[35] “甘 蔗 甲 人 献 玄 鹿 Đinh Dậu, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 8 [1117], (Tống Chính Hoà năm thứ 7)… người giáp Cam Giá dâng hươu đen.” ĐVSKTT, sđd, tr.17a.

[36] Xin xem nguyên bản ký hiệu A.570/1-2. (Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Xin xem thêm Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Các trấn tổng, xã danh bị lãm), Viện Nghiên cứu Hán Nôm – Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Nxb. KHXH, H., 1981.

[37] Văn Uyên các Tứ khố toàn thư – Thông điển 通典, quyển 184, Đài Bắc Đài Loan Thương vụ Ấn thư quán, 1983, chép 安南都䕶府東至朱鳶縣界水路五百里至朱鳶縣界阿勞江口水路百四十九里西至九真郡界水路四百一十六里北至武平縣界江源二百五十里東南到朱鳶縣界五百里西南到文陽郡水路一百五十里西北到承化郡嘉寜縣江鎮一百五十里東北到交趾縣十里去西京七千二百五十三里去東京七千二百二十五里户二萬四千七百三十口九萬九千六百六十安南府秦屬象郡漢交趾日南二郡界後漢因之兼置交州晉宋齊並因之宋又置宋平郡齊因之亦為交趾郡地梁陳因之隋平陳郡廢置交州煬帝初州廢置交趾郡大唐為交州後改曰安南都䕶府領縣七宋平朱鳶龍編太平交趾武平平道今理宋平縣今南方夷人其足大指開廣若並足而立其趾則交故名交趾領郡七理於此晉領郡七宋領郡五齊領郡九皆理於此宋置宋平郡在此吳軍晉縣地舊置武平郡鳶以専反漢舊縣漢龍編縣地吳舊縣齊置昌國縣 “An Nam Đô hộ phủ, phía đông đến cảnh giới huyện Chu Diên đường thủy đi 500 dặm. Phía nam đến cửa sông A Lao thuộc cảnh giới huyện Chu Diên đường thủy đi 149 dặm. Phía tây đến cảnh giới quận Cửu Chân đường thủy đi 415 dặm. Phía bắc đến nguồn sông của cảnh giới huyện Vũ Bình 250 dặm. Phía đông nam đến cảnh giới huyện Chu Diên 500 dặm. Phía tây nam đến cảnh giới quận Văn Dương đường thủy đi 150 dặm. Phía tây bắc đến Giang Trấn huyện Gia Ninh thuộc quận Thừa Hoá 150 dặm. Phía đông bắc đến huyện Giao Chỉ 10 dặm. Cách Tây Kinh 7,253 dặm, cách Đông Kinh 7,225 dặm. Hộ: 24,730, khẩu: 99,650. Phủ An Nam, nay trị ở huyện Tống Bình. Thời Tần thuộc Tượng Quận. Thời Hán là cảnh giới hai quận Giao Chỉ, Nhật Nam, nay là đất của người Di phương nam, chân của họ đại khái mở rộng ra, nếu đem chân đứng dậy, ngón chân liền giao nhau, cho nên tên là Giao Chỉ. Nhà Hậu Hán theo đó, đặt ra Giao Châu. Lĩnh 7 quận, trị ở đó. Nhà Tấn, Tống, Tề đều theo đó. Thời Tấn lĩnh 7 quận, thời Tống lĩnh 8 quận, thời Tề lĩnh 9 quận, đều trị ở đó. Nhà Tống lại đặt quận Tống Bình, nhà Tề theo đó, cũng là đất quận Giao Chỉ. Nhà Lương, Trần theo đó. Nhà Tùy dẹp nhà Trần, quận bỏ, đặt ra Giao Châu. Đầu thời Dương Đế, châu bỏ, đặt ra quận Giao Chỉ. Nhà Đại Đường là Giao Châu, sau đổi là An Nam Đô hộ phủ. Lĩnh 7 huyện: Tống Bình. Nhà Tống đặt quận Tống Bình tại đấy. Chu Diên. Thời Ngô là huyện Quân Bình. Trước đặt ra quận Vũ Bình. Diên, dĩ truyền phiên. Long Biên. Huyện cũ thời Hán. Thái Bình. Giao Chỉ. Thời Hán thuộc đất huyện Long Biên Vũ Bình. Huyện cũ thời Ngô. Bình Đạo. Nhà Tề đặt ra huyện Xương Quốc.

[38] Nguyễn Tùng, nhà lịch sử nhân loại học xuất sắc người Việt hiện đang làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS). Trong khuôn khổ chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học về các biến đổi của làng xã ở đồng bằng Bắc
bộ giữa CNRS và Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), ông cùng các đồng nghiệp đã tiến hành hai cuộc điền dã ở Đường Lâm (5-6-1990 và 10-11-1991). Kết quả được trình bày trong cuốn Mông Phụ, un village du delta du fleuve Rouge, được dịch sang tiếng Việt với tựa đề Mông Phụ, một làng ở đồng bằng sông Hồng, do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội xuất bản năm 2003.

[39] Khi viết bài này, chúng tôi chưa có điều kiện để tìm được văn bản chính thức của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tạm thời, chúng tôi tin vào cứ liệu do tác giả Nguyễn Tùng đưa ra.

[40] Trần Quốc Vượng, Về quê hương Ngô Quyền, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 101, 8/1967, tr. 60 – 62.

[41] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. KHXH, H., 1964. tr. 84.

[42] Văn Tân, Vài sai lầm về tài liệu của bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 93, 12/ 1966. tr.31-32.

[43] Nguyễn Minh Tường, Hai tấm bia ở xã Đường Lâm- thị xã Sơn Tây viết về Phùng Hưng và Ngô Quyền, Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử văn hoá Đường Lâm, Nxb. KHXH, H., 2005. tr. 30- 43. Tác giả viết: “Tấm bia Quang Thái thứ 3 (1390) này được khắc vào cuối đời Trần (1225- 1400), tức là sau thời gian xuất hiện của bộ sách Việt điện u linh (1329) khoảng trên 50 năm. Có thể đó là những văn bản đầu tiên ghi chép về sự tích của hai vị anh hùng dân tộc cùng quê ở Đường Lâm là Phùng Hưng và Ngô Quyền” , sđd, tr. 42.

[44] Vũ Duy Mền, Tấm bia Quang Thái (1390) đời Trần tại đình Phùng Hưng, làng Cam Lâm, xã Đường Lâm Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử văn hoá Đường Lâm, Nxb. KHXH, H., 2005, tr. 44- 47.

[45] Cảnh Huệ Linh 耿慧玲, Phùng Hưng khảo 馮興考, Việt Nam sử luận – Kim thạch tư liệu chi lịch sử văn hoá tỷ giảo 金石資料之歷史文化比較, Tân Văn Phong Xuất bản công ty, Đài Loan, 2004, tr. 201-224. Cảnh Huệ Linh cho rằng Phụng tự bi không phải là bia Trần mà là văn bia đời Lê, văn bia Phụng tự bi ký là bia Hồng Đức. Tài liệu do Th.S Phạm Văn Tuấn cung cấp. Nhân đây xin chân thành cảm ơn.

[46] Nguyễn Tùng (chủ biên). Mông Phụ một làng đồng bằng sông Hồng. Nxb Văn hoá Thông tin, H., 2003, tr. 31.

[47] Ngụy tạo văn bia là hiện tượng phổ biến trong thực tế lịch sử. Về vấn đề này xin xem Nguyễn Văn Nguyên, Khảo sát giám định niên đại thác bản văn bia, Nxb. Văn hoá thông tin, H., 2007.

[48] Những tri thức này chúng tôi có được từ một số năm được làm việc cùng các anh Lê Quốc Việt, Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Đức Dũng, Phạm Văn Tuấn trong nhóm thư pháp Tiền vệ Zenei Gang of Five. Lê Quốc Việt từng đưa ra nhận định như sau về lịch sử thư pháp Việt Nam: “Kiểu sức là đặc điểm của thư pháp thời Nguyễn đồng thời là dấu son đẹp đẽ chấm dứt nghệ thuật thư pháp nước nhà trước khi Việt Nam chuyển đổi văn tự. Đinh chuộng ý 意 , Lý chuộng vận 運 , Trần chuộng luật 律 , Lê chuộng pháp 法 , Mạc chuộng biến 變 , Nguyễn chuộng kỹ 技 là tổng quan về lịch sử thư pháp Việt Nam.” Xin xem Zenei Gang of Five, Script- Chữ- Thư pháp tiền vệ (catalogue), Thọ Studio, H., 2007. Phương pháp giám định này hiện gần như bị các nhà sử học bỏ qua. Đối với các chuyên gia bi ký và Hán học chuyên sâu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm tuy phương pháp này chưa được thành văn nhưng nó là sự đúc kết kinh nghiệm và nghiên cứu thực địa nhiều năm mà không người nào không trực tiếp xử lý văn bia nguyên gốc lại có được. Hi vọng, trong một tương lai gần, phương pháp này sẽ được coi là một trong những cứ liệu tin cậy giúp xác định niên đại văn bia.

[49] Phụng tự bi奉祀碑. Ký hiệu 36002 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

[50] Nguyên bản văn bia đã bị vỡ mất chữ Tự trong Tự Đức, thế nhưng Nguyễn Minh Tường, Cảnh Huệ Linh với tín niệm về một bia niên đại sớm đã đoán nó là niên hiệu Hồng Đức, và xác định bia này khắc năm 1473. (Nguyễn Minh Tường, bđd, tr.42). Xin xem thác bản ký hiệu số 36003 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

[51] Xin xem thêm Đào Duy Anh, sđd, tr. 180 – 181.

[52] Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, lời cẩn án có ghi rằng đời Lê sơ, phủ Quốc Oai vẫn có huyện Phúc Lộc. (Xem Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. KHXH, H., tr. 220). Cảnh Huệ Linh có lẽ cũng dựa vào chi tiết này để xác định tấm bia thuộc về thời Lê sơ. Nay xin cải chính.

Xin bàn thêm: về mặt lý thuyết thì đúng là có hai khả năng để giải thích cho địa danh Phúc Lộc. Một là Phúc Lộc đời Lê; hai là Phúc Lộc đời Gia Long- Minh Mệnh. Tuy nhiên, phong cách thư pháp, văn tự, kiểu dáng văn bia không cho phép nghĩ đây là bia đời Lê.

[53] Ký hiệu bia 36004 Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

[54] Đặng Xuân Bảng (1828 – 1910) trong Việt sử cương mục tiết yếu 越史綱目節要 ghi: “Tân mùi, [791] (Đường Đức Tông, Trinh Nguyên năm thứ bảy). Mùa hạ, Phùng Hưng ở Đường Lâm, Phong Châu (Đường Lâm là tên xã; nay là xã Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, không phải là huyện Đường Lâm, châu Phúc Lộc [chú của dịch giả: nay là xã Cam Lâm, huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây] ). Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu 越史綱目節要, Hoàng Văn Lâu dịch chú giới thiệu, Nxb. KHXH, H. 2000. tr. 48.

[55] Trần Quốc Vượng, bdd, tr. 60.

[56] Trần Quốc Vượng, Đường Lâm dưới góc nhìn địa- văn hoá- lịch sử, Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử văn hoá Đường Lâm, sđd, tr. 150- 151.