Mối tình Hồ Xuân Hương và Mai Sơn Phủ qua Lưu Hương Ký (1)

Hồ Xuân Hương

PHẦN I.

Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu

Câu thơ của một nữ thi sĩ thế kỷ 20, 21 chăng ? Không đó là thơ Hồ Xuân Hương viết vào cuối thế kỷ 18. viết cho người tình Mai Sơn Phủ. Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca Việt Nam, một phụ nữ đã để lại một tập thơ tình, kể lại chuyện tình của mình, trang tình sử nào cũng đầy đau thương và nước mắt cho những mối tình dang dở. Phải đặt vào hoàn cảnh xã hội ngày xưa, phụ nữ biết đọc chữ Hán, chữ Nôm có thể đếm trên đầu ngón tay, văn chương chỉ để chở đạo lý Khổng Mạnh. Thế mà có một Xuân Hương làu thông kinh sách chẳng kém gì nam giới, làm thơ đi ba bước đã nên câu. Ấy thế mà còn chép lại những bài thơ tình nồng nàn thắm thiết của mình thành nguyên tập thơ thì quả thật có một không hai. Làu thông nhuần nhuyễn cả hai ngôn ngữ Việt – Hán. Ngày nay có thi sĩ nào làm thơ giỏi cả hai ngôn ngữ Việt - Pháp hay Việt - Anh không nhỉ ? Hồng nhan đa truân, không đợi Nguyễn Du trong một nàng Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân mà bắt đầu bằng người yêu mối tình đầu tiên: Xuân Hương Hồ Phi Mai. Cái chết trẻ, bất ngờ của Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, tưởng nàng đã thoát, nào ngờ đâu: Ma dẫn lối quỷ đưa đường, cứ tìm những chốn đoạn trường mà đi.

Xuân Hương quen biết Mai Sơn Phủ trong những năm 1799 -1801, lúc ấy Xuân Hương 27, 29 tuổi, mối tình đã để lại những bài thơ tình nồng nàn thắm thiết. Mai họ Mai lấy hiệu là Mai Sơn, Phủ theo Đào Duy Anh trong Tự điển Hán Việt là tiếng sang trọng để xưng người đàn ông. Nguyễn Án người đời xưng là Nguyễn Kính Phủ. Phạm Đình Hổ hiệu là Tùng Niên nên còn có tên là Tùng Niên Phủ. Qua thơ Lưu Hương Ký ta đoán biết quê chàng ở Hoan Châu vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Mai Sơn Phủ có lẽ chỉ là một thư sinh chưa đỗ đạt gì, nên không thấy tên tuổi đỗ đạt trong các khoa thi. Trong thơ chữ Hán của Phạm Đình Hổ, tôi tìm ra bài: Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng.Tôi cho đó là Mai Sơn Phủ. Bài thơ có Hoàng giang mưa điểm hương mai nở. Cuộc tiễn đưa vào mùa hè: Gậy trúc ngày hè xa cố đô. Mùa hè làm gì có mai nở, tôi cho rằng : chỉ có giọt nước mắt của Phi Mai tiễn đưa người tình trên sông Hoàng Giang. Phạm Đình Hổ tiễn đưa một người bạn, và Xuân Hương Hồ Phi Mai tiễn đưa một người tình. Do đó Mai Sơn Phủ và Mai Công chỉ là một. Mai Sơn Phủ, người làng Liên Cừ ở Vinh, làng Sen, ngày xưa gọi là Vịnh Phố.

Sau mối tình Hồ Xuân Hương với Nguyễn Du để lại mối hận một đời. Không thấy trong Lưu Hương Ký nhắc đến anh thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm dù trong thơ truyền khẩu có bài Bà Lang khóc chồng. Anh Lang mất sớm, mẹ và mai mối ép gả, có lẽ Xuân Hương không xem đó là một mối tình, nên đùa bỡn: thương chàng nên khóc tỉ tì ti.

Mai Sơn Phủ yêu nàng, ngỏ ý cưới nàng, hai người cắt tóc, trích máu ngón tay hoà vào rượu thề nguyền., thề nếu phụ tình nhau sẽ bị thần linh trừng phạt: dao búa nguyền xin lụy đến mình. Hồ Xuân Hương đã trao cả tâm hồn lẫn thể xác cho Mai Sơn Phủ. Năm 1801 Mai Sơn Phủ rời Thăng Long về quê để xin cha mẹ cưới nàng. Cuộc chia tay thắm thiết nơi bến sông Vị Hoàng, nhưng rồi Mai không về Thăng Long nữa. Chàng đã mất trong chiến tranh, vì một cơn bạo bệnh, hay mối tình bị cha mẹ chàng không đồng ý ? Mai Sơn Phủ chỉ còn để lại dấu vết trên đời qua những vần thơ yêu đương nồng nàn thắm thiết của Xuân Hương. Tôi dịch các thơ chữ Hán và sắp xếp thứ tự theo diễn biến tình tiết.

  • Thuật ý khiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ
  • Xuân Đình Lan điệu
  • Thu nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ
  • Thệ viết hữu cảm
  • Thu tứ ca
  • Hoạ Mai Sơn Phủ chi tác
  • Nguyệt dạ ca
  • Tự thán I, II

Bài Thuật ý khiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ, viết theo điệu Giang Nam, Hồ Xuân Hương viết trong đêm xuân 1799, nàng nhớ lại buổi hẹn cùng Mai Sơn trên bờ sông Hồng, sông bát ngát nước chảy xiết, chàng và nàng khăng khít, nàng cảm động lệ rơi ướt áo, nàng yêu thương thắm thiết và mong người yêu cùng viết thành thơ để trao nhau những nỗi lòng yêu đương, mà lời không nói được hết ý.

Đêm trăng thanh, gió mát nhớ thương chàng đứt ruột, đâu là gác Đằng Vương, nhìn mây xanh xanh, nước trôi một hướng, mang bao niềm thương nhớ. Hẹn chàng lần gặp mặt tới, chàng ơi đừng quên ngày hẹn, sao em thấy ngày qua thật chậm. Đêm cũng qua thật chậm rì rì, từ sáng đến tối em nhớ chàng lòng buồn lắm.

Trong mưa bay, gió bay, em cất bút viết thơ gửi đến chàng. Đôi ta cùng ngâm thơ, cùng uống rượu dưới trăng, từ lúc chàng về nửa lòng chàng có ấm gối, chăn. Nếu chàng có đem đàn ra gảy, chớ gảy bài buồn xa nhau oán người tri âm, non cao nước chảy biết đâu tìm, đừng đàn bài hận chuyện xưa nay. Chàng ơi, đôi ta hò hẹn, ước mơ nhiều, nhưng sao gặp nhau quên tuốt luốt, không biết nói năng câu gì ?

Trà thường pha, bút vẫn viết, em và chàng cùng giống nhau, cùng uống trà, cùng ngâm thơ, mà chàng đâu có ở xa em lắm đâu, chàng đã hiểu lòng em, hãy về thưa cha mẹ cậy mai mối cưới em, cho tình ta không phụ lời hẹn hò.

Kể ý mình trình bạn Mai Sơn Phủ Thuật ý khiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ
Hoa bay bay, Hoa phiêu phiêu,
Cây thầm thì. Mộc tiêu tiêu.
Vắng lặng hồn ta mộng tình si, Ngã mộng hương tình các tịch liêu,
Đêm xuân nhớ lắm khi. Khả cảm thị xuân tiêu.
Nai xôn xao, Lộc ao ao,
Nhạn lao chao. Nhạn ngao ngao.
Vui sướng hẹn nhau một sáng nào. Hoan hảo tương kỳ tài nhất triêu.
Tả hết được tình sao ? Bất tận ngã tâm miêu ?
Sông bát ngát, Giang bát bát,
Nước chảy xiết. Thủy hoạt hoạt.
Lòng em cùng lòng chàng khắng khít Ngã tương quân hoài tương khế khoát.
Lệ rơi trên áo thấm ướt ! Lệ ngân chiêm hạ sát !
Thơ tha thiết, Thi tiết tiết,
Lòng da diết, Tâm thiết thiết,
Nồng nhạt lòng em, chàng đã biết. Nồng đạm thốn tình tư lưỡng đạt.
Chàng ơi cất bút viết ! Dã ưng quân bút phát !
Gió thênh thang, Phong ngang ngang,
Trăng mênh mang, Nguyệt mang mang,
Trăng gió xui ai luống đoạn trường. Phong nguyệt phong linh khách đoạn trường.
Nào đâu gác Đằng Vương ? Hà xứ thị Đằng Vương ?
Mây thương thương, Vân thương thương,
Nước vương vương. Thủy ương ương.
Mây nước trôi đâu chỉ một đường, Vân thủy na kham vọng nhất trường,
Một đường xa khuất vọng hoài thương. Nhất trường dao vọng xúc hoài mang.
Ngày rì rì, Nhật kì kì,
Đêm trì trì. Dạ trì trì.
Sáng tối chạnh buồn lữ khách si, Nhật dạ thiên hoài lữ tứ bi.
Nhớ thương đừng lỡ hẹn sai kỳ. Tứ bi ưng mạc ngộ giai kỳ.
Gió bay bay Phong phi phi
Mưa bay bay, Vũ phi phi,
Mưa gió giục lòng cất bút say, Phong vũ tần thôi thái bút huy,
Bút say gửi đến khách tình nhi. Bút huy đô thị phó tình nhi.
Chàng có lòng, Quân hữu tâm,
Thiếp có lòng, Ngã hữu tâm,
Mộng hồn lưu luyến bóng hoa lồng. Mộng hồn lưu luyến liễu hoa âm.
Thơ cùng ngâm, Thi đồng ngâm,
Rượu cùng châm, Tửu đồng châm,
Tự lúc buồn ly biệt, Nhất tự sầu phân duệ,
Nửa lòng ai ấm chăn. Hà nhân noãn bán khâm.
Chớ đàn ly khúc oán tri âm. Mạc đàn ly khúc oán tri âm.
Đành xem như hết tiếng dao cầm. Trực tu khí tri dao cầm.
Cao sơn lưu thủy biết đâu tìm, Cao sơn lưu thủy vãn tương tầm,
Chớ có buồn than hận cổ kim. Ưng bất hận ngâm thán cổ kim.
Chàng hẹn chi, Quân hà kỳ,
Thiếp hẹn chi. Ngã hà kỳ.
Đôi ta sao nỡ nói năng gì ? Lữ đình lai đắc lưỡng lai tri ?
Trà thường pha, Minh tần phi,
Bút nở hoa. Bút tần huy.
Đâu chẳng ngâm chẳng uống, Nhất trường đô bút thiệt,
Mà chàng ở đâu xa ? Hà xứ thị tình nhi ?
Nay chi chàng vẫn biết tình ta ? Hảo bằng tâm thượng khách tương tri?
Thì trao chỉ thắm cậy trăng già. Dã ưng giao thac thử duyên đề.
Lòng thơm không phụ hẹn hò xưa. Phương tâm thệ bất phụ giai kỳ.

(Giang Nam điệu. Thơ chữ Hán Lưu Hương ký, Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ)

Điển tích:

Đằng Vương Các: Vương Bột sang thăm cha làm Thứ sử Giao Châu. Đến Mã Dương, trong bữa tiệc do Đô đốc Diêm Bá Dư trấn nhiệm Hồng Châu khoản đãi tân khách và mở hội thơ thử tài nhân sĩ bốn phương. Vương Bột viết bài Đằng Vương Các, chiếm giải quán quân vượt hẳn bài của Ngô Tử Chương con rể Diêm Đô đốc, bài phú có hai câu tuyệt bút: Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. Dịch; Ráng chiều cò lẻ bay cùng. Nước thu nối với trời xanh một màu. Vương Bột thăm cha trở về thì bị đắm thuyền trên biển Nam Hải chết năm 21 tuổi.

Dao cầm: đàn quý.

Cao sơn lưu thủy: khúc nhạc diễn tả núi cao nước chảy trên sông Lý Giang vùng Quế Lâm,tỉnh Quảng Tây, tranh thủy mặc non nước vẽ vùng này: Quế lâm cảnh đẹp nhất trần gian, theo người Trung Quốc, tôi có đi qua vùng này năm 2009 nhưng thấy non núi không đẹp bằng Chùa Hương, hay Hoa Lư, Bích Động, Hạ Long.

Bài Xuân Đình Lan điệu viết: Trăng tà in bóng người lặng lẽ trên lầu canh thành Thăng Long. Nằm lắng nghe tiếng chuông đồng chùa Trấn Quốc vào khuya. Dậy sớm lắng nghe tiếng chuông đồng công phu buổi sớm. Nửa đêm ai hát bên kia sông Tô Lịch. Chàng và em hợp nhau quá, thanh khí tương đồng, em tương tư nhớ chàng suốt năm canh. Hồn và tâm em mơ cùng chàng cuộc ân ái như Vua Sở Tương Vương cùng Thần nữ núi Vu Sơn. Gặp nhau ta sẽ cùng ân ái nhàn như gió đông, mỏi như gió đông, niềm hạnh phúc như một vườn hồng hạnh (cây mận) xanh biếc.

Điệu ca Xuân Đình Lan Xuân đình lan điệu
Trăng tà người lặng lẽ lầu không ! Nguyệt tà nhân tỉnh thú lâu trung !
Nằm lắng chuông đồng, Ngoạ thỉnh đồng long,
Dậy lắng chuông đồng, Khởi thỉnh đồng long,
Nửa đêm ai hát nửa kia sông ? Dạ bán ai giang hưởng bán không ?
Tiếng đã tương đồng, Thanh đã tương đồng,
Khí đã tương đồng. Khí đã tương đồng.
Tương tư không dứt suốt năm canh. Tương tư vô tận ngũ canh cùng.
Tâm ở Vu Phong Tâm tại Vu Phong
Hồn ở Vu Phong ? Hồn tại Vu Phong ?
Ân ái cuộc tao phùng, Ân ái thử tao phùng,
Nhàn tựa gió đông, Nhàn ỷ đông phong,
Mỏi tựa gió đông, Quyện ỷ đông phong,
Một vườn hồng hạnh biếc xanh xanh, Nhất viên hồng hạnh bích thanh song,
Mơ hoa tỉnh giấc nồng, Phồn hoa tích dĩ không,
Sáng nay cành nở mấy hoa hồng. Kim trêu hựu kiến sổ chi hồng.
Oanh ơi đừng rủ xuân đi nhé ! Oanh nhi mạc đái xuân phong khứ !
Ta sợ đào hoa không đủ sức cười với gió đông ! Chỉ khủng đào yêu vô lực tiếu đông phong !
Gió trong trăng sáng, Phong thanh nguyệt,
Hãy đem hương tới gửi thi nhân. Bạch bả kỳ hương nhập khách ngâm trung.

(Thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký. Nhất Uyên dịch thơ)

Và đêm trăng thu Hồ Xuân Hương nhớ Mai Sơn Phủ viết bài thơ nôm Thu nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ - Đêm trăng thu nhớ Mai Sơn Phủ. Bài thơ viết năm 1799 trong đêm thu trăng sáng nhớ lại buổi chiều cùng đi dạo với Mai Sơn Phủ, trong lá bay. Đêm nay chùa Một Cột vẫn còn đấy, lòng Xuân Hương vẫn mênh mang như ba con sông Nghĩa Trụ, Kim Ngưu và Đại Bi hợp thành sông Nhĩ Hà chảy lại đâu ? Em gặp chàng rồi sẽ đi về đâu ? Phận gái mừng thầm duyên nợ với chàng, đừng như bèo mây hợp rồi tan mà tủi phận về sau. Trăm năm dù là vợ cả hay thứ thiếp của chàng, ông tơ bà nguyệt cũng xe đỏ tay tơ cho đến khi đầu bạc. Người Lào, người Mường khi chia tay nhau có phong tục cột chỉ màu đỏ vào tay nhau, nước ta thời Xuân Hương còn phong tục ấy chăng ?

Đêm trăng thu nhớ Mai Sơn Phủ
 
Lá ngọc chiều thu giận hẵn du,
Tuần trăng sẽ nhớ bữa đêm thu.
Bên am Nhất Trụ trông còn đấy,
Ngọn nước Tam Kỳ chảy lại đâu ?
Son phấn trộm mừng duyên để lại,
Bèo mây thêm tủi phận về sau,
Trăm năm biết có duyên thừa nữa,
Cũng đỏ tay tơ cũng trắng đầu.

(Thơ chữ nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký)

Rồi một đêm trăng Hồ Phi Mai và Mai Sơn Phủ đã cắt tóc, mỗi người một mảnh gộp lại và chia làm hai, trích máu nhỏ vào hai chén chung rượu, chén tử và chén sinh cùng uống thề trọn đời yêu nhau. Bài Thệ viết hữu cảm, Xuân Hương ghi lại cảm nghĩ khi thề: Mười mấy năm trời một chữ tình, kể từ khi gặp Nguyễn Du mùa hạ năm 1790, mười năm sau 1800 mới gặp được người ngỏ ý yêu mình, muốn kết duyên với mình hẳn là duyên nợ ông tơ bà nguyệt đã dành. Cùng cắt tóc mây góp lại, (xưa các chàng cũng để tóc dài búi lên cột dây, nên tha hồ mà cắt) dao vàng cắt chia làm hai, mỗi người giữ một bó làm kỷ niệm. Lấy kim trích máu nhỏ đầy hai chén rượu, chén tử và chén sinh. Thề sống và chết trọn kiếp với nhau, thề không phản bội nhau từ đầu xanh đến bạc tóc. Nếu mai sau, ai chẳng giữ lời thì chết dữ vì dao búa. (Trước kia Nguyễn Du không có thề nguyền với Xuân Hương, nên chàng lừng khừng: tròn trặn gương tình cũng có khi, ở biệt mãi Hồng Lĩnh)

Cảm nghĩ khi thề
 
Mười mấy năm trời một chữ tình;
Duyên tơ này đã sẵn đâu dành.
Mái mây cắt nửa nguyền phu phát,
Giọt máu đầy hai chén tử sinh,
Một kiếp đã thề cùng dạ thắm,
Trăm năm đừng phụ với đầu xanh,
Mai sau lòng chẳng như lời nữa,
Dao búa nguyền xin lụy đến mình.

(Thơ Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký)

Trong văn học Việt Nam, chúng ta biết đến việc cắt tóc, trích máu thề nguyền qua Thúy Kiều và Kim Trọng. Tóc mây một mái dao vàng chia hai.

Trong nguyên tác Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân do ông Tô Nam Nguyễn Đình Diệm dịch. Ông Phạm Đan Quế có in lại trong Truyện Kiều đối chiếu nxb Hà Nội 1991 tr 100, có ghi bài văn thề của Kim Trọng Thúy Kiều. (Tôi xin trích sẵn sau đây để các bạn trẻ ngày nay chỉ việc couper, imprimer và điền tên họ vào, nhớ phải sắm sẵn thuốc sát trùng và xài kim mới, người viết không chịu trách nhiệm về vấn đề y tế và về thẩm mỹ đầu tóc)

THỀ RẰNG
 
Chúng tôi hai kẻ đồng tâm là Kim Trọng và Vương Thúy Kiều
Trọng sinh năm ...... tháng ...... ngày ...... giờ .....
Kiều sinh năm .... tháng ...... ngày ...... giờ ......
Nay xin kính cẩn đốt nén hương lòng, dâng ly rượu tịnh, thề trước hoàng thiên hậu thổ linh thiêng.
Chúng tôi trộm nghĩ:
Vợ chồng trọng nghĩa, nghĩa phải thủy chung không rời. Nhi nữ đa tình, tình dẫu tử sinh không phụ.
Trước đây: Kiều muốn lấy chồng, Trọng mong có vợ, thương mộ tài sắc đã nguyền đôi chữ đồng tâm.
Ngày nay: Trọng lo buổi mới, Kiều sợ về sau, tạc dạ ghi lòng, cùng thề đến khi mãn kiếp.
Sau giờ minh thệ, ví thử chẳng may, gặp cảnh bất thường, quyết không thay đổi.
Ai mà phản bội lời ước. Cứu xin thần thánh xét soi.
 
Ký tên (hai bản)
Kim Trọng và Thúy Kiều

(bản Thúy Kiều trao lại cho Thúy Vân, thay thế chị tiếp nối lời thề, tình chị duyên em, quy luật bất thành văn, vì trong lời thề không có khoản nào thay thế. Thúy Vân chỉ ung dung ngồi yên cho chị lạy, rồi hưởng hạnh phúc, mặc chị mười lăm năm phong trần gió bụi)

Chàng Kim viết và đọc xong văn tế, hai người quỳ lạy thiên địa, đoạn quay vào chén thù chén tạc.

Nghi lễ thường cử hành lúc canh khuya có ba sao Tam Tinh (Sam Sung, của Đại Hàn lấy từ tích này đây) chứng giám, lấy tích trong Kinh Thi thuộc Đường Phong có câu Tam Tinh tại thiên, ba sao giữa trời, ý nói vợ chồng gặp nhau lúc canh khuya. Thời Hồ Xuân Hương sống trong chiến tranh Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh đang hồi quyết liệt, lời thề chết vì dao búa trong chiến tranh là lời thề khiếp sợ nhất.