Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Tư duy > Cổ điển > Lê Quý Đôn (1726-1784)

Lê Quý Đôn (1726-1784)

Thứ Sáu 19, Tháng Giêng 2007

Một vị quan lớn cuối thời Lê-Trịnh, nhà sử học từng đi sứ và sống nhiều năm ở kinh đô. Ông sinh ngày 5 tháng Bảy năm Bính Ngọ, niên hiệu Bảo Thái thứ 7 (2-8-1726), thuở nhỏ tên Lê Danh Phương, sau mới đổi là Lê Quý Đôn (黎 貴 惇), tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Quê ở làng Diên Hà, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

Tiểu sử

Lê Quý Đôn là con trai thứ của Lê Trọng Thứ, tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (1721). Khi còn bé, Lê Quý Ðôn nổi tiếng là thần đồng. Nhiều sách ghi 5 tuổi đã đọc Kinh Thi, 10 tuổi đã học sử.Năm 13 tuổi (1739) Lê Quý Đôn lên kinh đô nơi cha ông làm quan to đến chức Hình Bộ Thượng Thư, tước Hầu. 18 tuổi, Lê Quý Đôn đỗ giải nguyên kỳ thi Hương trường thi Sơn Nam. Sau khi dự thi Hội không đỗ, ông về quê dạy học và viết sách.

Năm 1752, Lê Quý Ðôn 27 tuổi lên kinh thi Hội đỗ đầu, vào thi Ðình cũng đỗ đầu Bảng Nhãn (khoá này không có Trạng Nguyên). Sau đó được bổ nhiệm chức Thụ Thư ở Viện Hàn Lâm. Năm 1754, bổ làm Hàn lâm thừa chỉ rồi sung Toản tu Quốc sử quán. Năm 1756, ông đi Liêm phóng (thanh tra) ở trấn Sơn Nam, phát giác được 7 viên quan hối lộ.

Tháng 5-1756, Lê Quý Đôn biệt phái sang Phủ Chúa, coi phiên binh, đến tháng 8 ông đi hiệp đồng với các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa. Lúc về triều ông dâng bài điều trần gồm 19 khoản nói về chức Chưởng phiên binh. Chúa Trịnh xem khen ngợi và thưởng 50 lạng bạc. Năm 1757, Lê Quý Ðôn được thăng chức Thị Giảng Viện Hàn Lâm.

Tháng 6 năm Kỷ Mão niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 (1759) triều vua Lê Hiển Tông, thượng hoàng Lê Ý Tông mất. Sang tháng Giêng năm Canh Thìn (1760) triều đình cử một phái đoàn báo tang và dâng cống lễ với nhà Thanh. Lê Quý Ðôn và Trịnh Xuân Chú được cử làm phó sứ. Sứ đoàn đi qua các phủ châu Quảng Tây đều bị họ gọi là Di Quan Di Mục (quan lại mọi rợ). Khi đến Quế Lâm, Lê Quý Ðôn viết thư cho vị tổng trấn Quảng Châu để phản đối. Với uy tín và học vấn của Lê Quý Ðôn, phía Trung Hoa phải chấp nhận bỏ những danh từ miệt thị này và gọi sứ đoàn là An Nam Cống Sứ.

Tại Bắc Kinh ông mua rất nhiều sách, làm quen với giới trí thức Trung Hoa và phương Tây. Năm 1762, Lê Quý Ðôn về triều được thăng chức Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ. Ông lập Bí Thư Các và dâng sớ xin thiết lập pháp chế để trị dân nhưng không được chấp thuận và triều đình bổ ông làm Tham chính Hải Dương.

Năm 1765, ông từ quan xin cáo hưu về sống nơi quê nhà, viết sách.Năm 1767, Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm nối ngôi Chúa, Lê Quý Ðôn được phục chức Thi Thư và tham gia biên soạn Quốc Sử kiêm chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám.Năm 1770, ông được thăng chức Công Bộ Hữu Thị Lang. Mùa xuân năm 1776, lại bổ làm Hiệp Trấn, Tham Tán Quân Cơ vùng biên ải Đàng Trong.

Năm 1778, bổ nhiệm chức Hành Tham Tụng nhưng ông cố từ và xin được đổi sang võ ban. Ông được trao chức Hữu Hiệu Ðiểm, quyền Phủ Sự, phong tước Nghĩa Phái Hầu.Năm 1781, sung chức Quốc sử Tổng tài.

Năm 1783, ông đi hiệp trấn Nghệ An, không lâu sau thì mất vào ngày 14 tháng Tư năm Giáp Thìn (2-6-1784) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45, thọ 58 tuổi, được truy thăng hàm Thượng thư Bộ Công.

Tác phẩm chính

Quốc sử tục biên, Đại Việt thông sử hay Lê triều thông sử, Phủ biên tạp lục, Quần thư kho biện, Xuân thu lược luận, Bắc sử thông lục, Toàn Việt thi lục, Vân đài loại ngữ, Quế Đường văn tập, Dịch kinh phủ thuyết, Kiến văn tiểu lục, Danh thần lục, Thư kinh diễn nghĩa, Toàn Việt văn tập, Hoàng Việt văn hải, Quế Đường thi tập.

Lê Quý Đôn làm nhiều thơ Hán và cả thơ Nôm. Xin đơn cử 2 bài:

題 安 子 山安 山 山 上 最 高 峰
纔 五 更 初 日 已 紅
眺 望 目 窮 滄 海 外
笑 談 身 在 碧 雲 中

Đề Yên Tử sơn

Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật dĩ hồng
Diểu vọng mục cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm thân tại bích vân trung

Đề núi Yên Tử

Ngồi ở Yên sơn đệ nhất phong
Canh năm đã thấy rực vầng hồng
Bể khơi, phóng rộng tầm con mắt
Mây biếc, nô cười bóng lẫn trong.

(Bản dịch: Nhân Phủ)

Vịnh Trương Lương

Khôn thay rất mực bác Lưu hầu
Lui tới thong dong tự trước sau
Vì giận không thành mưu Bác Lãng
Nên đành phải bội ước Hồng Câu
Suy tiêu khiển giặc lòng sinh chán
Tịch cốc theo tiên, kế rất mầu
Sách cũ một pho, ba tấc lưỡi
Nhà nho như thế thực phong lưu

Giai thoại

Quan Thượng đến thăm ông nghè Lê Trọng Thứ, hỏi đường ở đầu làng bị một cậu bé tụt quần đố chữ. Khi tới nhà kể chuyện, Lê Trọng Thứ biết là gặp con mình nên gọi về trách mắng và đánh đòn. Quan Thượng thấy cậu bé thông minh nên xin tha với điều kiện phải ứng khẩu một bài thơ tạ tội. Cậu xin quan Thượng ra đầu đề. Quan Thượng nói: phụ thân đã mắng cậu "rắn đầu rắn cổ", cậu cứ lấy đó làm đề bài. Cậu ngẫm nghĩ một chốc rồi đọc bài thơ:

Rắn đầu rắn cổ

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học quyết không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia

Đề bài ý nói cậu bé cứng đầu, lười học. Vậy mà Lê Quý Đôn đã tài tình sử dụng từ "rắn" để ghép vào trong các câu thơ của mình; rắn liu điu, rắn đầu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn hổ trâu, rắn hổ mang và còn ví mình như bậc đại nho (từ nay Trâu Lỗ xin siêng học). Quan Thượng hết sức thán phục.