Văn học Cu Ba

Dora Alonso (1910-2001)

Nhà văn Cu Ba

Tiểu sử:

Dora Alonso (1910-2001) tên thật là Doralina de la Caridad Alonso Pérez là nhà báo, nhà văn nữ Cu Ba. Bà viết nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện thiếu nhi. Ngoài ra bà còn sáng tác cả kịch truyền thanh, truyền hình và là một phóng viên chiến tranh. Bà sinh và mất ở Máximo Gómez , Matanzas , Cuba thọ 90 tuổi. Dora Alonso đã giành một số giải thưởng như: Giải thưởng Thơ (1942), Giải thưởng Nhà nước về Văn học (1988), Giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết (1994)...

Tác phẩm

Đôi tay

Thềm nhà nhô ra phía trước với những hàng lan can đã mục nát. Ngôi nhà dễ chừng phải đến trăm tuổi, mái đã sụt xuống gần chạm đất, đen đủi, bẩn thỉu, chằng chịt những mạng nhện.

Cánh cửa chính là một khung cửa sổ đóng bằng gỗ thô song sắt đã rệu rã, cong queo, han gỉ. Tấm rèm bằng vải thô đã rách tã, mềm nhũn như một mớ tóc bạc rối bù quấn quanh song sắt ngoài cùng, hai mép trên được buộc vào hai đầu khung cửa, trông giống hình chiếc thánh giá kỳ dị, gấp khúc.

Cúi nhìn qua tấm rèm cửa đang khẽ lay động, có thể thấy được sâu phía trong phòng và quan sát cách bài trí của nó. Một bức chạm hình thánh Vác-va-ra treo trên tường nhà trông hao hao giống như chiếc cúp. Thấp hơn một chút là lọ hoa. Đầu giường, một tấm ren đã ố vàng nằm im lìm như đang say giấc.

Để ý nhìn kỹ tấm cửa ra vào, các bạn sẽ nhận ra vẻ khác thường của nó: Khung cửa được viền bằng những đường chạm trang trí hình con thoi nho nhỏ, khiến nó giống hệt một bức bình phong. Có lẽ tấm cửa được làm bằng gỗ thông.

Nếu nhìn qua khe hở giữa hai cánh cửa khép không chặt, ta sẽ thấy một chái bếp mái đã oằn xuống ẩn sâu tít bên trong, khuất phía dưới một chiếc vỏ đồ hộp, um tùm cỏ mọc. Những hộp sắt tây cũ nằm ngổn ngang trên chiếc giá nghiêng của chái, tường vôi loang lổ những vết lở đã ố vàng, những tầng mạng nhện dày đặc, nhớp nháp, chằng chịt ở phía trên run rẩy, đung đưa trước gió.

Nhưng ánh mắt ta, trước khi đến với cảnh tượng đầy những hộp sắt tây gỉ kia, sẽ còn gặp những đồ vật khác ở trong nhà. Đó là chiếc lồng chim treo lơ lửng giữa trần nhà như ngọn đèn chùm. Trong lồng, một con chim lông sặc sỡ đang chao lượn, chao lượn rất êm, cánh chim sáng loang loáng. Đôi mắt nó lóng la lóng lánh, giống hệt hai hạt cườm bằng pha lê.

Giữa tất cả những thứ ấy, chỉ có đôi tay là thể hiện sự sống. Rời đầu gối, hai cánh tay vươn dậy, và qua khe hở chật hẹp của hai cánh cửa khép hờ, chúng ta chỉ nhìn thấy hai cẳng tay khô gầy như đang bay lượn trong gian nhà lạnh vắng.

Đó là đôi tay nhợt nhạt, bọc lớp da màu sáp cũ, với những ngón tay đã nhăn nhúm, quắt queo vì tháng năm và nghèo đói; những đầu ngón tay nhọn gầy, đáng thương nhô dài ra ngoài những chiếc móng gầy mòn, cụt ngủn.

Đôi tay bắt đầu vá một thứ đồ rách nào đó. Chiếc đê khâu lỏng lẻo trên ngón tay đeo nhẫn sáng mờ mờ. Ngón tay bên cạnh ngoan ngoãn nằm im. Cây kim từ từ hạ xuống, và tiếp đó rắn rỏi luồn qua lần vải, dính chặt mụn vá. Rồi sau khi nhanh nhẹn nhô dần sang phía kia, cây kim lại lượn lên kéo theo sợi chỉ bằng động tác dài ngắt quãng, theo sự điều khiển của những ngón tay màu sáp đang bay lên trong tia sáng từ trần nhà hắt xuống.

Bàn tay kia che giấu vẻ ốm yếu của mình dưới sự che chở nhân từ của lần vải, nhưng ta vẫn có thể cảm thấy nó đang cử động như thế nào dưới đó. Loài nhuyễn thể khi hấp hối thường ngọ nguậy như vậy dưới lớp lưới dày.

Đôi khi mặt trời cố dồn hết sức, phát ra những tia nắng quái ác, hùng hổ đuổi theo bàn tay, chiếu xuyên qua lần da, làm nổi rõ mạch máu sưng phồng như những sợi thừng chuyển động đang bò đến các đầu ngón tay gầy guộc.

Cây kim và sợi chỉ vẫn không ngừng chuyển động lên, xuống... lên, xuống.

Trong những cơn rên rỉ âm thầm, đôi tay suốt quãng đời bảy mươi năm dệt mãi một tấm tình thầm lặng, gửi gắm trên những tấm láng, tấm lụa, tấm vải ba-ti-xơ. Đôi tay ấy đã dệt nên biết bao tấm hoa, thêu tên những cô dâu dịu dàng mà thậm chí kỷ niệm về họ cũng đã bị năm tháng xóa nhòa, biết bao những tràng hoa tang dài, bàng bạc lạnh lẽo, biết bao những bộ quần áo xinh xẻo cho những sinh linh bé bỏng yếu ớt vừa chào đời, sưởi ấm chúng bằng sức sống huyền diệu được truyền từ đôi tay không bao giờ biết mệt.

Giờ đây đôi tay đang làm lụng cho mình, đang khâu những lỗ thủng, đang dính những miếng vá. Giờ đây, cứ khẽ dần khẽ dần, chúng vẫn tâm sự những nỗi niềm lặng lẽ của mình trong động tác lên xuống không nghỉ, giữa cảnh yên lặng đăm chiêu của ngôi nhà cũ nát.

Bóng tối bất chợt đổ xuống từ lỗ hổng trên mái nhà xiêu vẹo. Và vụt biến tất cả, tất cả những gì chúng ta còn chưa kịp nói đến.

Nhưng trong cảnh nhá nhem của gian nhà, đôi tay vẫn làm việc, vẫn tâm tình, vẫn trăn trối điều gì đó trong cơn hấp hối. Đối với chúng, một ngày mai mới mẻ chẳng bao giờ còn đến nữa.

Trần Minh Tâm dịch

Nguồn: Mặt đất và bầu trời (tập truyện Cu Ba), NXB Lao động, 1984