Đông Tác

Blog

Trang nhà > Văn chương > Cổ điển > YÊN ĐÀI THU VỊNH - 29 bài thơ về mùa thu Bắc Kinh (3)

ĐOÀN NGUYỄN TUẤN (1750—?)

YÊN ĐÀI THU VỊNH - 29 bài thơ về mùa thu Bắc Kinh (3)

(phần cuối)

Thứ Ba 21, Tháng Ba 2017, bởi Cong_Chi_Nguyen

21.Bài Thu Tình (Mùa thu trong sáng): Muôn ánh hào quang giỡn trong ánh sáng chiều. Ánh nắng hồng điểm trang trăm hoa rực rỡ. Đẩy song cửa có khách thảnh thơi ngắm cảnh. Chỉ thấy trên trời cánh nhạn bay ngang.

TÌNH THU
Muôn ánh tường quang lộng nắng chiều,
Trăm hoa trang điểm sắc đua màu.
Đẩy song có khách thi nhân ngóng,
Chỉ thấy lưng trời cánh nhạn cao.

THU TÌNH
Vạn đạo tường quang lộng vãn tình,
Hồng trang bạch tiễn bách hoa minh.
Thôi song hữu khách thư nhàn vọng,
Duy hữu trường không nhất nhạn tình.

22.Bài Thu sắc (Cảnh sắc mùa thu): Bát ngát trời cao màu xanh phong kín. Bốn phía đồng nội mông mênh, tùng sam già cỗi. Muốn mời bàn tay tiên làm thợ vẽ. Lượm hết dáng mùa thu, vẽ thành tranh cuộn lại thành từng ống tranh bỏ vào hòm khách.

SẮC THU
Bát ngát trời cao một sắc xanh,
Đồng nội mênh mông một góc thành.
Muốn gửi tay tiên ai khéo vẽ,
Góp hết thu dung một bức tranh.

THU SẮC
Đạm đãng tràng thiên nhất bích hàm,
Thương thương tứ dã lão tùng sam.
Họa công dục thỉnh chân tiên thủ,
Liễm tận thu dung nhập lữ hàm.

23.Bài Thu Ngô: Thu đến sương gieo lá ngô đồng rụng cuống trôi theo dòng sóng nước bạc. Thân cây già xơ xác trên bờ đê lạnh. Thương thay Tây đế (vị thần coi về mùa thu) thật nỡ vô tình. Chẳng vì chim thiêng, chim phượng hoàng mà che chở cho một cành.

NGÔ ĐỒNG MÙA THU
Lá rụng theo sương trôi sóng bạc,
Tiêu điều gốc lạnh cành bờ đê.
Thương thay Tây đế vô tình nhỉ?
Chẳng để chim thiêng một cảnh về.

THU NGÔ
Diệp chiến sương uy phó bạch ba,
Tiêu điều lão cán thặng hàn đê.
Khả liên Tây đế vô tình cực,
Bất vị linh cầm tí nhất kha.

CHÚ THÍCH:

  • Chim thiêng: tương truyền chim phượng hoàng đậu trên cây ngô đồng.

24.Bài Thu Lô: Phía nam viện khách có cái đỉnh nhỏ xua tan hơi rét. Làn khói nhạt bay lẫn vào đám mây chiều. Căn trần tục của thân thế phù sinh còn nặng. Dốc sức vào lò lửa đến nay đã ba năm rồi. Đoàn Nguyễn Tuấn muốn nói mình ra làm quan Tây Sơn từ năm 1787 vì căn trần tục mình còn nặng nên phải dốc sức vào lò lửa luyện đan đã ba năm nay giống như đạo sĩ luyện đan làm thuốc trường sinh bất tử.

LÒ SƯỞi MÙA THU
Phía nam viện khách đỉnh than hồng,
Mây chiều pha khói nhạt màu lam.
Bởi phù sinh vướng căn trần nặng,
Lò hồng chăm sóc đã ba năm.

THU LÔ
Tiểu đỉnh khu hàn khách viện nam,
Đạm yên phi nhập mộ vân hàm.
Phù sinh thân thế trần căn mộng,
Lô hỏa cần phao tuế dĩ tam.

25.Bài Thu Thanh: Thê lương não ruột lọt vào bức rèm thưa. Trời đất không có tiếng mà ngẫm lúc bỗng lúc trầm. Lúc thì yên, lúc thì gợi ra như vạn mối sầu. Cứ sáng ra, mái tóc lại bạc thêm mấy sợi. Âu Dương Tu cũng có bài Phú Tiếng Thu tuyệt tác. Bài Thu Thanh của Đoàn Nguyễn Tuấn gợi vài câu mùa thu thi hào Âu Dương Tu, và kết luận bằng hình ảnh câu thơ Lý Bạch, mái tóc sớm xanh chiều đã bạc. (Xem bài Nguyễn Du qua mộ Âu Dương Tu)

TIẾNG THU
Thê lương não ruột nhập rèm thưa,
Trời đất vô thanh, trầm bổng mà !
Lúc gợi, lúc yên sầu vạn mối,
Sáng ra tóc bạc mái đầu xưa.

THU THANH
Thê thê thiết thiết nhập sơ liêm,
Thiên địa vô thanh khởi phục tiềm.
Bài dẫn u sầu thiên vạn chủng,
Hiểu lai bạch phát sổ hành thiêm.

26.Bài Thu Phố: Khói liễu đu đưa, gió chiều lạnh lẽo. Trời sông hiu quạnh chẳng nỡ ngắm nhìn. Vài ba chim âu trên bãi cát giật mình muốn vùng dậy. Ngư ông đi về bến nước đầy rau tần xanh.

BẾN THU
Khói liễu đu đưa lạnh gió chiều,
Trời sông biếng ngắm cảnh đìu hiu.
Vài chim âu giật mình vùng dậy,
Ngư phủ đi về nơi bến rau.

THU PHỐ
Liễu yên phi phất vãn phong hàn,
Đạm đãng giang thiên bất nhẫn khan.
Tam lưỡng sa âu kinh dục khởi.
Ngư ông qui khứ lục tần than.

27.Bài Thu Hà (Ráng chiều mùa thu): Ánh thu vạn dậm ở trong bầu ngọc. Ráng hồng lả bóng vào trong kinh đô. Trên hội Bàn Đào, trời cùng vui chung. Cửa trời mở ra như bức tranh treo. Nhìn ráng hồng chiều thu, Đoàn Nguyễn Tuấn tưởng tượng đến cảnh Tây Vương Mẫu hiến bàn đào, mở tiệc ăn trái đào trên trời. Cảnh trời đất như chung vui với nhau.

RÁNG THU
Vạn dậm ánh thu ngọc một bầu,
Ráng hồng lả bóng xuống kinh đô.
Bàn đào mở hội trời chung hưởng,
Trời mở như treo một họa đồ.

THU HÀ
Vạn lý thu quang tại ngọc hồ,
Hồng hà đồ ảnh nhập hoàng đô.
Bàn đào hội thượng thiên đồng lạc,
Xương hạp môn khai quải họa đồ.

28.Bài Thu Sương: Đèn lẻ loi đêm dài hơi lạnh thấm áo. Lác đác hoa sương bay phủ quanh mặt. Râu tóc một nửa bạc theo nỗi sầu. Chẳng cần vị thần sương Thanh Nữ làm bạn cùng cửa lạnh.

SƯƠNG THU
Đèn quạnh đêm thâu lạnh áo choàng,
Mặt người lác đác phủ hoa sương.
Tóc râu một nửa sầu lên bạc,
Chẳng bạn nàng Thanh chốn cửa hàn.

THU SƯƠNG
Cô đăng dạ vĩnh lãnh xâm y,
Lạc mạc sương hoa táp diện phi.
Mao mấn bán tùy sầu lý bạch,
Mạc tu Thanh Nữ bạn hàn phi.

CHÚ THÍCH:

  • Thanh Nữ: theo sách Hoài Nam Tử là vị thần của sương.

29.Bài Thu Nhạn: Phía Nam huyện Hành Dương, tỉnh Hồ Nam có dãy Hành Sơn, gồm có 70 núi, trong đó có Hồi Nhạn Phong là đỉnh núi cao nhât. Tương truyền chim nhạn bay đến đó thì quay về. Mấy bóng chim nhạn sà ở đầu tường. Mộng về Hành Dương bởi ai nên chậm? Ân cần cùng người kể chuyện tâm tình. Hãy theo gió Tây mà tìm cành cũ.

NHẠN THU
Chim nhạn đầu tường thoáng bóng sa,
Hành Dương mong nhớ chậm ai về.
Ân cần tâm sự cùng ai đó,
Quay hướng Tây phong kiếm lối xưa.

THU NHẠN
Sổ cá tường đầu nhạn ảnh đê,
Hành Dương vi mộng vị thùy kê.
Ân cần dữ nhĩ thoại trung khúc.
Hảo tưởng cô phong mịch cố chi.

Mùa thu Việt Nam không rõ nét, trên quê hương Việt Nam hai mùa mưa nắng. Không có cảnh rừng thu phong đã nhuốm màu quan san, cảnh vật rực đỏ màu lá phong khi sương muối về chen lẫn màu vàng rực rỡ, trong mưa thu, trong gió heo may. Trong thi ca cổ điển Việt Nam, chúng ta chỉ biết những bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến: Ao Thu, Thu Điếu, Thu Vịnh thỉnh thoảng cá đớp vài chiếc lá vàng rơi rụng, hay hình ảnh cung điện thành quách ngậm ngùi bên màu cỏ úa: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo của Bà Huyện Thanh Quan Nguyễn Thị Hinh. Nguyễn Du có bài tả cảnh mùa thu tại miền núi Vân Nam trong Thanh Hiên Thi tập. Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương có những bài thơ tình mùa thu đối đáp nhau chép trong Hương Đình Cổ nguyệt thi tập, Lưu Hương KýThanh Hiên thi tập (xem bài Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du) nhưng 29 bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn là một chùm thơ viết về mùa thu thật là đặc sắc, nói lên tâm sự người đi sứ xa nhớ về quê hương. Xin giới thiệu cùng độc giả những bài thơ tuyệt tác trong kho tàng thi ca chữ Hán Việt Nam của Đoàn Nguyễn Tuấn viết tại Bắc Kinh để đọc uống trà, ngâm thơ, ngắm hoa cúc mỗi độ thu về.

Paris 7-3-2017
PHẠM TRỌNG CHÁNH

Tài liệu tham khảo: Thơ Văn Đoàn Nguyễn Tuấn. Hải Ông Thi Tập. Viện Hán Nôm. Nxb Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1982.


Xem online : Phần 1