Trang nhà > Quan niệm > Nhân văn > NGƯỜI ĐÀN BÀ MỞ CÁNH CỬA THẦN BÍ
Nhân đọc bài “Tôi xuất gia gieo duyên” của Phan Việt*
NGƯỜI ĐÀN BÀ MỞ CÁNH CỬA THẦN BÍ
Nguyễn Hải Hoành
Thứ Bảy 4, Tháng Năm 2019, bởi
Cách đây không lâu, nhà văn – tiến sĩ xã hội học Phan Việt[1] lại cho mọi người biết thêm một bí ẩn riêng tư nữa của mình: chị đã cạo tóc xuất gia tại một ngôi chùa ở Thái Lan. Như vậy Phan Việt không chỉ xuất gia trong tâm mà chị đã dứt khoát xuất gia trên thân – một bước chuyển mình quan trọng trong đời người, nhất là đối với một phụ nữ trẻ.
Rất hiếm người cùng thời sớm thành công và thành danh như Phan Việt. 22 tuổi du học Mỹ rồi lấy bằng tiến sĩ, trở thành phó giáo sư giảng dạy môn xã hội học tại một trường đại học danh giá ở Mỹ, ngoài ra còn viết văn, viết báo, dịch và hiệu đính sách. Chị là tác giả của dăm tác phẩm nổi tiếng, là nhà hoạt động xã hội năng nổ, một nhân vật của công chúng... Đang thỏa sức vẫy vùng và tỏa sáng như vậy, nay rút vào cuộc đời kín đáo của một nhà tu hành theo đạo Phật, liệu chị có còn làm việc và cống hiến như trước nữa không, và chị có cảm nghĩ như thế nào trong giây phút quyết định xuất gia?
Phan Việt trả lời: « Ngay giây phút đó, những gồng gánh và cả quả núi lớn từ trên vai tôi được vứt ùm xuống... Chính sau khi có thể chấp nhận và bỏ xuống những ý niệm về bản thân và việc phải làm, thì tôi lại có một sự rõ ràng và tự do tôi chưa từng biết đến, để có thể làm được rất nhiều điều mà trước đây tôi đắn đo. Sống để làm gì, sống thế nào trở nên rõ ràng hơn hết. »
Cái gánh nặng và quả núi khổng lồ mà Phan Việt từng cõng trên lưng ấy là những nỗi phiền muộn trong lòng chúng ta, chủ yếu gây ra bởi chúng ta làm việc với tâm thế chỉ muốn « thu vào », « lấy cho mình », cố thu vén cho bản thân những thứ như tiền bạc, danh tiếng, địa vị, sự ngợi khen, hâm mộ..., vì thế khi không thu nhận được những thứ ấy, chúng ta sẽ nản chí. Việc xuất gia đã giúp chị trút bỏ được gánh nặng ấy, từ nay chị nhẹ nhõm làm mọi việc với tâm thế « mở ra » và « cho đi » mà không bám vào một mục đích, mong muốn được đền đáp nào, nhờ thế có thể làm việc không mệt mỏi... Chính là khi không còn thấy bản thân và những việc mình làm là quan trọng thì tôi lại có lòng dũng cảm và sự tử tế lớn nhất để làm được nhiều việc.
Như vậy là, khác với chúng ta, Phan Việt đã hiểu được khái niệm « Tính Không » rất khó hiểu của đạo Phật. Tính Không cũng là Vô Ngã, là ít nghĩ tới cái tôi, không coi bản thân là quan trọng, tức Vị Tha. Chị khẳng định : ở thời điểm này, giới tinh hoa mà chị là một thành viên nên chỉ có cho đi, nghĩa là đem cho mọi người mọi thứ mình có, từ thứ hữu hình như tiền bạc, vật dụng... cho tới thứ vô hình như sự giáo dục, đùm bọc, cảm thông... Từ nay Phan Việt đã Quy Y, tức tin phục lý tưởng cao cả của đạo Phật. Niềm tin ấy sẽ giúp chị đứng vững và làm tròn nhiệm vụ của một thành viên giới tinh hoa trong thời đại bất ổn này.
Sức mạnh nào khiến cho Phan Việt sau ba tuần ngụ ở chùa Rombodhidharma Thái Lan đã nhanh chóng chuyển từ « Không » sang đồng ý « Có » cạo đầu đi tu ?
Xin mượn lời nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuận để nói thay chị. Không thụ lễ Quy Y nhưng ông Thuận thừa nhận mình là một Phật Tử, theo Phật không phải là theo một đấng thánh thần siêu đẳng nào, mà là theo tư tưởng của một nhà thông thái sáng suốt. Sức hút của đạo Phật chủ yếu là ở Thuyết nhân quả, tinh hoa của đạo Phật là Luật Karma (Nghiệp): Ta luôn gặt hái cái ta đã gieo, những gì đã làm ở kiếp trước dù xấu tốt đều không mất đi, mọi nỗi khổ đau trong đời ta đều nảy sinh bởi một nghiệp chướng xấu từ kiếp trước, ta luôn phải gánh hậu quả của việc mình làm. Nói cách khác, người trí thức luôn nghĩ mình phải có ích cho mọi người. Họ theo đạo Phật chủ yếu để có một niềm tin dẫn dắt mình vừa thanh thản cống hiến nhiều hơn cho xã hội lại vừa tránh được mọi phiền muộn gây ra bởi thời cuộc nhố nhăng khó xử.
Người ta thường cho rằng tôn giáo đối lập với khoa học. Thực tế cho thấy giữa tôn giáo với giới khoa học, giới trí thức có tồn tại một mối quan hệ khó hiểu rất đáng quan tâm.
Mối quan hệ ấy được Einstein diễn tả trong câu: « Khoa học không có tôn giáo thì khập khiễng, tôn giáo không có khoa học thì mù quáng ». Einstein là người Do Thái nhưng thừa nhận Chúa Jesus và đánh giá rất cao đạo Phật. Ông nói: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học" « Phật Giáo bắt đầu tại nơi khoa học kết thúc »
Trước Phan Việt, trên thế giới từng có những nhà trí thức sau khi đạt đỉnh cao sự nghiệp lại gắn đời mình vào một niềm tin tôn giáo. Sự thực đó khiến người ta nghi ngờ câu nói Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân – các nhà trí thức cấp cao sao lại đi nghiền ma túy ? Ngày nay dường như mọi người đều đã hiểu rằng Tôn giáo (xin chớ nhầm với tà giáo) là văn hóa.
Phải chăng giữa trí thức với tôn giáo có một cánh cửa thần bí thông với nhau, và một số nhà trí thức khi thăng hoa lên tới tầng cao nào đó sẽ mở cánh cửa ấy để bước sang một cõi nhân sinh mới, một nền văn hóa mới ?
Nghệ sĩ Trung Quốc Lý Thúc Đồng (1880-1942) là một trong những người như vậy. Ông là đại diện ưu tú kết hợp văn hóa truyền thống Trung Quốc với văn hóa Phật giáo, vị cao tăng xuất sắc nhất trong Phật giáo Trung Quốc hiện đại, ngọn cờ đầu phong trào Văn hóa Mới ở nước này.
Lý Thúc Đồng là bậc đa tài, kỳ tài, kết hợp các tài năng âm nhạc, hội họa, thư pháp, nghệ thuật sân khấu, giáo dục mỹ thuật, là người đầu tiên đưa vào Trung Quốc các yếu tố văn hóa phương Tây như hội họa sơn dầu, đàn piano và kịch nói. Sau khi quy y, Lý tiếp tục đạt được những thành tựu xuất sắc về nghiên cứu Phật giáo, trở thành một trong bốn Đại Cao tăng thời Trung Hoa Dân Quốc. Ba vị kia xuất gia sớm[2], riêng Lý sau khi đạt đỉnh cao sự nghiệp mới đi tu.
Năm 26 tuổi Lý Thúc Đồng đưa vợ con về quê rồi đi du học. Trong 6 năm ở Nhật ông say sưa học tập, sáng tác, hoạt động xã hội, biên tập tạp chí âm nhạc, học Khoa Sơn dầu trường Mỹ thuật Tokyo, lập đoàn kịch nói đầu tiên của Trung Quốc và diễn các vở “Trà Hoa Nữ ”, “Túp lều bác Tôm” v.v... 31 tuổi, ông về nước cùng vợ mới là cô gái Nhật từng làm người mẫu khỏa thân cho ông. Tiếp đó ông hoạt động văn học nghệ thuật và dạy học tại một số trường cao đẳng, trở nên nổi tiếng khắp Trung Quốc.
Năm 38 tuổi Lý Thúc Đồng bí mật thụ lễ quy y Phật Giáo tại chùa Hổ Bão ở Hàng Châu, lấy hiệu Hoằng Nhất.
Trước khi xuất gia, Lý Thúc Đồng viết một bức thư cho bà vợ người Nhật như sau (tóm dịch):
« Em :
Lần trước đã nói với em rồi, chắc em đã hiểu, xuất gia chỉ là chuyện sớm muộn với anh mà thôi. Thời gian qua em đã suy nghĩ và thông cảm với quyết định của anh rồi chứ? Nếu đồng ý anh làm thế thì hãy viết thư cho anh biết.
Anh hiểu nỗi lòng đau khổ và tuyệt vọng của em, khi em buộc phải chấp nhận mất đi một người từng có mối quan hệ cực kỳ sâu sắc với mình. Nhưng em là một người không tầm thường. Xin em hãy nuốt ngụm rượu đắng này rồi cố gắng sống nốt cuộc đời của mình....
Quyết định như vậy không phải là anh cạn tình bạc nghĩa. Nhưng vì để đi hết chặng đường Phật đạo xa xôi gian nan, anh phải bỏ lại tất cả. Anh bỏ lại em, cũng bỏ lại thanh danh và của cải tích lũy được trong đời mình. Những thứ đó đều là mây khói thoảng qua, chẳng đáng để luyến tiếc.
Cái chúng ta cần xây dựng là Nước Phật sáng láng trong tương lai, trên mảnh đất Tây Thiên cực lạc. Chúng mình sẽ gặp lại nhau ở nơi ấy nhé...
Thúc Đồng. Ngày 1 tháng Bảy năm Mậu Ngọ. »
Hai bà vợ vô cùng đau khổ tìm đến khuyên ông trở về gia đình, nhưng ông không nghe. Bà vợ người Nhật mang con nhỏ không quản đường xa lặn lội đến Hàng Châu lùng xục tất cả các ngôi chùa, cuối cùng khi đến chùa Hổ Bão thì tìm thấy chồng mình.
“Lý Thúc Đồng!”, người vợ kêu thất thanh. “A di đà phật. Xin hãy gọi tôi là Hoằng Nhất” “Bạch nhà sư Hoằng Nhất, xin nói cho em biết yêu là gì?” “Yêu, là từ bi.” “Cớ sao anh từ bi với người đời nhưng lại tàn nhẫn với em như vậy?”....
Cuối cùng người đàn bà Nhật bỏ đi mất tăm, còn bà vợ Trung Quốc đem các con về quê.
Tin Lý Thúc Đồng xuất gia đã gây ra một cơn chấn động trong dư luận Trung Quốc thời bấy giờ. Hầu hết mọi người không thể nào hiểu được vì sao ông lại có quyết định như vậy. Người ta xì xào bàn tán, phỏng đoán mọi lý do. Những người từng rung động khi đọc các tác phẩm văn thơ của ông, nhất là giới phụ nữ đa sầu đa cảm, lại càng cảm thấy hẫng hụt như bị mất chỗ dựa tinh thần. Một bạn đọc nữ bỗng dưng nảy sinh tình cảm với Lý Thúc Đồng, người đàn ông tài hoa và đào hoa. Ngày nào bà ta cũng đến chùa tìm ông, van nài ông hoàn tục. Lý Thúc Đồng gửi tặng người phụ nữ ấy hai câu thơ của nhà sư đa tài đa tình Tô Mạn Thù[3]: « Hoàn quân nhất bát vô tình lệ, Hận bất tương phùng vị thế thời » (還君一缽無 情 淚,恨 不 相 逢 未 剃 時). Tạm dịch ý: Xin trả lại người bát lệ vô cảm, hận chẳng gặp nhau khi còn chưa xuống tóc.
Một nghệ sĩ tài ba, phong lưu công tử, một trí thức lừng danh như Lý Thúc Đồng vì sao cuối cùng lại xuất gia? Hãy nghe giải thích của Phong Tử Khải[4], một trí thức Trung Quốc nổi tiếng, học trò của Lý Thúc Đồng.
Đời người có thể ví như một tòa nhà ba tầng: tầng thứ nhất là đời sống vật chất, tầng thứ hai là đời sống tinh thần, tầng thứ ba là đời sống linh hồn. Đời sống vật chất là ăn, mặc, ở. Đời sống tinh thần là hoạt động học thuật, văn học nghệ thuật. Đời sống linh hồn là tôn giáo. Ai lười hoặc không đủ sức leo cầu thang thì ở tầng trệt, chỉ lo sao cho cuộc sống vật chất được đầy đủ thì thỏa mãn. Phần lớn người đời có nhân sinh quan như vậy. Những người có hứng thú hoặc có đủ sức leo cầu thang thì lên tầng hai chơi hoặc ở hẳn. Đó là những người chuyên làm học thuật, văn học nghệ thuật, dâng đời mình cho việc nghiên cứu, sáng tác và thưởng thức văn học nghệ thuật. Số này khá nhiều, được gọi là “nhà trí thức”, “nghệ sĩ”, “học giả”.
Còn một loại người nữa có ham muốn mạnh mẽ và sức lực kiên cường, không thỏa mãn sống ở tầng hai mà tiếp tục leo lên tầng ba. Đó là những tín đồ tôn giáo. Họ không thỏa mãn với ham muốn vật chất cũng như ham muốn tinh thần mà quyết đi tìm bằng được ngọn nguồn tận cùng của đời người. Họ cho rằng của cải vật chất cùng con cháu đều là thứ ở bên ngoài thân xác, học thuật và văn học nghệ thuật chỉ là những cảnh đẹp tạm thời, ngay cả thân xác mình cũng chỉ là thứ tồn tại hư ảo. Họ không chịu làm kẻ nô lệ cho bản năng mà phải tìm kiếm nguồn gốc của linh hồn, căn bản của vũ trụ. Có thế mới thỏa mãn cái ham muốn sống của họ.
Có người đi thẳng từ tầng trệt lên tầng trên cùng mà không dừng lại tầng hai. Riêng Lý Thúc Đồng đi lên từng tầng một. Ông có ham muốn sống cực kỳ mạnh mẽ, làm việc gì cũng rốt ráo đến nơi đến chốn. Thời trẻ ông tận hiếu với mẹ, hết lòng yêu thương vợ con. Ở tuổi trung niên, ông dốc sức nghiên cứu nghệ thuật, phát huy thiên tài trên nhiều mặt. Nhưng vì ham muốn sống quá mạnh nên ông không thỏa mãn với cuộc sống ở tầng hai. Và thế là Lý Thúc Đồng đi lên tầng cao nhất, trở thành nhà sư Hoằng Nhất, tu Tịnh Độ Tông, nghiên cứu các giới luật, trở thành bậc cao tăng hiếm thấy, được thế gian ngưỡng mộ truyền tụng.
Điểm cao nhất của cầu thang tầng hai là tầng ba. Đỉnh cao nhất của nghệ thuật thì gần gũi với tôn giáo. Từ nghệ thuật thăng hoa đến tôn giáo – dường như đó là việc mà những nhà trí thức, nghệ sĩ lớn như Lý Thúc Đồng tất nhiên sẽ làm, không có gì lạ.
Phải chăng tiến sĩ—nhà văn Phan Việt xuất gia gieo duyên cũng là một sự thăng hoa như vậy?
Ghi chú
*Bài của TS Nguyễn Hải Hoành, đã đăng Tạp chí Tia Sáng số 1+2 (15/1/2017)
[1] Phan Việt tên thật Nguyễn Ngọc Hương, sinh 1978. Tác phẩm chính (tính đến 2017): Phù phiếm truyện (2005); Tiếng người (2008); Nước Mỹ, nước Mỹ (2009); Một mình ở châu Âu (2013); Xuyên Mỹ (2016); Về nhà (2017).
[2] Bốn đại cao tăng thời Trung Hoa Dân Quốc (1911-1949): Hư Vân, Thái Hư, Ấn Quang và Hoằng Nhất (弘一tức Lý Thúc Đồng, 李 叔 同).
[3] Tô Mạn Thù 苏 曼 殊, 1884-1918, bố TQ, mẹ Nhật, nhà thơ, nhà văn, họa sĩ nổi tiếng. Du học Nhật, sau về TQ đi tu. Ưa hoạt động, từng chu du hơn 10 nước châu Á (kể cả Việt Nam). 1902 tham gia cách mạng chống nhà Thanh, vào Hưng Trung Hội, là bạn của Tôn Trung Sơn, Trần Độc Tú. Có 92 tác phẩm. Dịch “Trà Hoa Nữ” và “Những người khốn khổ”. Nhà sư đa tài được rất nhiều phụ nữ yêu. Hai câu trơ trên trích từ một bài thơ thất ngôn bát cú ông làm để tặng một geisha xinh đẹp người Nhật khi cô này chủ động cầu hôn ông.
[4] Phong Tử Khải 豐 子 愷, 1898-1975, họa sĩ, nhà giáo dục mỹ thuật, nhà phiên dịch, người mở đầu ngành biếm họa Trung Quốc. Năm 1927 quy y đạo Phật, trở thành cư sĩ tu tại gia.