Trang nhà > Nghệ thuật > Kiến trúc > Đình Thổ Tang
6926 Tho Tang village hall
Đình Thổ Tang
Thứ Bảy 15, Tháng Sáu 2019, bởi
Đình Thổ Tang có từ thế kỷ XVII. Thờ: thành hoàng Lân Hổ, thân mẫu ngài và Thần Nuôi Ná. Xếp hạng: di tích quốc gia đặc biệt (2018). Vị trí: 7F3Q+VV, TT Thổ Tang, TP Việt Trì, Vĩnh Phúc. Cách BĐX Bờ Hồ: 60km (hướng 10h). Trạm bus lân cận: Lối rẽ cầu Vĩnh Thịnh (xe 70, 70B, 76, 92)
Lược sử
Đình Thổ Tang thuộc TT Thổ Tang [1], huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đình được xây dựng từ thế kỷ XVII và đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Đình còn có tên gọi khác là đình Địa Tang/Giang/Quang (tên Nôm của thôn) hay đình Chính (để phân biệt với một ngôi đình nữa của làng là đình Có/đình Phụ).
Đình thờ đức thành hoàng Lân Hổ, thân mẫu ngài và Thần Nuôi Ná. Lân Hổ là một vị tướng có công giúp vua Trần đánh giặc Nguyên sang xâm lược nước ta. Ngài quê ở làng Đồng Bằng, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây cũ.[2]
Panorama NCCong ©2019
Theo Quyết định số 29 – VH/QĐ ngày 13/01/1964 ngôi đình cổ kính này đã được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích quốc gia. Ngày 24/12/2018, Thủ tướng Chính phủ có thêm Quyết định số 1820/QĐ-TTg về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đối với đình Thổ Tang căn cứ trên ý nghĩa lịch sử, văn hoá, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc dân gian đặc sắc.
Kiến trúc
Đình Thổ Tang gồm hai tòa đại đình và hậu cung kết nối theo truyền thống thành hình chuôi vồ, diện tích sử dụng gần 400m2. Kết cấu bộ vì chính của đình theo kiểu “chồng rường, giá chiêng”, liên kết phía dưới theo lối “thượng chồng cốn, hạ kè bẩy”, khá đặc trưng cho các ngôi đình có niên đại sớm (thế kỷ 17—18). Đại đình gồm 5 gian, 2 dĩ với 60 chiếc cột làm bằng gỗ tốt. Cột cái có đường kính 80cm, cột con đường kính 61cm. Nền dài 25m80, rộng 14m20, bó đá xanh xung quanh.
- Đánh cờ uống rượu. Chạm gỗ ở đình Thổ Tang
Hậu cung sâu 2 gian, bên trong bày long ngai với thần vị ngài Lân Hổ, thân mẫu ngài và Thần Nuôi Ná. Năm 1964 hậu cung cũ bị dỡ, năm 1995 mới được phục hồi. Bộ cửa võng ở đình Thổ Tang được chia làm 3 tầng và chạm trổ rất tinh tế. Tầng trên chạm hình hai rồng mẹ và 18 rồng con đang vờn viên ngọc (còn gọi là "cửu long tranh châu"). Tầng giữa chạm rồng chầu mặt trăng, hai bên có hai chim phượng đang bay cùng nhiều đao mác vân mây. Tầng dưới chạm hình lục tiên, cửu trùng, gai dứa. Trên cửa võng có treo bức hoành phi đề 3 chữ Hán "Hòa Vi Quý".
Di sản
Trong đình hiện còn 21 bức điêu khắc gỗ đặc sắc và nhiều cổ vật quý khác. Những bức nổi tiếng nhất chạm cảnh nông dân đi cày, chăn trâu, đá cầu, đấu vật, múa, bắn hổ, đánh cờ uống rượu, nghỉ ngơi, cảnh con mọn, vũ nữ cưỡi rồng, cảnh đánh ghen, vợ chồng lười v.v… thể hiện nghệ thuật quan sát tinh tế và bàn tay khéo léo tuyệt vời của các nghệ nhân xưa.
- Ngày hội xuống đồng. Chạm gỗ ở đình Thổ Tang
Ví dụ bức “Ngày hội xuống đồng” chạm trên một kẻ nghé ở hè đình cạnh cửa ra vào, có kích thước 135cm x 70cm. Cả 25 nhân vật đều được chạm bóng, nổi bật hình con trâu bị kéo mũi và người cầm cày đang chăm chú điều khiển để đường cày đạt tiêu chuẩn ngày hội trước đông đảo các quan viên, dân làng. Xung quanh có những người cầm cuốc, thổi tù và, đánh đàn, vác những bó mía. Bên trên có vị đội mũ cánh chuồn đang ngồi, tay cầm quạt tay bưng bát rượu bên cạnh cái mâm và một người chắp tay đứng hầu. Lại có người cưỡi ngựa đi xem hội…
Hoặc bức “Múa” có kích thước 105cm x 70cm, chạm hai người đầu chít khăn đang múa uyển chuyển, tay cong xòe rộng; một khán giả vuốt râu ngắm nhìn, phía dưới là một con rồng.
- Múa. Chạm gỗ ở đình Thổ Tang
Toàn bộ kiến trúc và nhiều tác phẩm điêu khắc của đình Thổ Tang đã được đưa vào lịch sử văn hóa Việt Nam như những điển hình của nghệ thuật thế kỷ 17. Ngoài những bức tiêu biểu đã được nêu trên còn có thể kể thêm một số tác phẩm khác được nhiều người yêu mến.
Bức “Bắn hổ” được đặt ở gian bên phải trong đình, có kích thước 80cm x 60cm; chạm người đi săn và con hổ trên vách núi. Chàng trai ghì súng trước ngực, chân trái hơi khuỵu, chân phải duỗi thắng, áp mình vào đá ở tư thế tiến công, mắt dõi theo súng chĩa về phía con hổ đang ở tư thế bị động, một chân trước múa vờn, một chân sau đưa lên gãi tai, miệng như gầm gừ…
Bức “Đá cầu” có hình vuông mỗi chiều 40cm, được đặt ở ngách cột cái gian bên cạnh. Trên gỗ là hình hai người đầu đội mũ quả lựu, áo thắt đai, cổ và ngực chạm hoa rất đẹp, mỗi người giơ một tay gác chéo lên nhau, một chân nâng lên vuông góc ở tư thế đá cầu, quả cầu tròn nằm ở lòng bàn chân. Phía sau ở khoảng giữa hai người có một con nghê nhô đầu ra trông rất ngộ nghĩnh.
- Bắn hổ. Chạm gỗ ở đình Thổ Tang
Bức "Sinh hoạt đời thường" được đặt bên trái cửa võng gần hậu cung, kích thước 140cm x 75cm. Ở giữa chạm cảnh yêu đương trẻ trung hồn nhiên: cô gái quàng tay qua cổ bạn tình còn chàng trai đặt một tay lên ngực cô. Bốn góc chạm cảnh gia đình hạnh phúc: chồng tay cầm thẻ, tay cầm bút, nằm sấp học bên cạnh vợ đang nghiêm trang bế con. Phía trên góc trái của tác phẩm tả cảnh gia đình lười: chồng nằm nghiêng, chân co, chân duỗi; vợ ngồi cạnh đang xoa bóp đùi chồng, hai người đều cười. Phía dưới chạm cảnh đánh ghen: người chồng vũ phu một tay chống nạnh một tay vác gậy trước người đàn bà tay khoanh trước ngực nét mặt buồn, dưới chân có đứa trẻ v.v…
Lễ hội đình làng Thổ Tang được tổ chức vào mùa xuân từ ngày 10 đến ngày 12 tháng giêng hàng năm. Trong dịp này có diễn ra các nghi lễ rước sắc, nghinh hương từ đền Trúc Lâm và miếu Nhà Nuôi về, ngoài ra còn có lễ Nghinh Quan Anh, thi Ông Đô và các trò chơi, diễn xướng dân gian khác.
Di tích lân cận
- Chùa Tùng Vân.
- Di chỉ Đồng Đậu.
- Đình Bích Chu.
- Đình Cam Giá.
- Đình Đông Đạo.
- Đình Hòa Loan.
- Đình Thủ Độ.
- Miếu Trúc Lâm.
Chú thích
[1] Quê hương của hai lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng là liệt sĩ Nguyễn Thái Học (1902–1930) và Vũ Hồng Khanh ̣(1898–1993).
[2] Tương truyền mẹ ngài tên Phùng Thị Dung, nhà nghèo phải làm nghề tiều phu vất vả. Một hôm, bà vào rừng Tô Lâm hái củi, lúc về đến cửa rừng nghỉ thì vì mệt mà ngủ thiếp đi. Bỗng có đám mây hồng bay đến bao quanh rồi tiếng hổ gầm làm bà giật mình tỉnh dậy. Về nhà tự nhiên mang thai, sau sinh ra một bé trai xinh xắn, sáng sủa. Thầy đồ trong làng đến xem tướng nói rằng: Cậu này không phải kỳ lân ắt là mãnh hổ. Nghe vậy bà liền đặt tên Lân Hổ. Chàng lớn lên có sức vóc hơn người, học giỏi và có tài thao lược. Khi vua Trần xuống chiếu vời người tài giúp nước, Lân Hổ xin mẹ cho đi và được làm bộ tướng ngăn cánh giặc Nguyên ở mặt Bắc. Ngài dẫn quân lên Gia Ninh (Bạch Hạc) lập một phòng tuyến chiến đấu bền bỉ, tiêu diệt nhiều địch. Sau chiến thắng, triều đình luận công, Ngài được ban tước Lân Hổ Hầu và thăng chức nhưng lại từ chối xin được về quê phụng dưỡng mẹ già. Mấy năm sau, quân Nguyên sang đánh báo thù. Lân Hổ lại được vời ra chỉ huy chiến tuyến Gia Ninh – Dục Mỹ. Lần này rất đông giặc đến bao vây, Lân Hổ cuối cùng đã hy sinh anh dũng. Vua cho xây lăng mộ, phong tước hầu, ban chữ Lân Hổ hầu Đô thống Đại vương và ra lệnh tế ngài theo nghi lễ nhà nước. Cùng với các xã vùng chiến tuyến, làng Thổ Tang đã lập đền thờ ngài. Khi xây được đình thì dân rước thần vị vào hậu cung để ghi nhớ công ơn và cầu mong ngài hiển linh che chở.
©NCCông 2016-2019, Tho Tang community hall