7683

NHÌN LẠI XU HƯỚNG BỎ CHỮ HÁN Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG Á

Hán

Khái niệm “Bỏ chữ Hán”, tiếng TQ viết 去汉字化, ở đây có nghĩa là không tiếp tục dùng chữ Hán làm chữ viết chính thức của nước mình. Dĩ nhiên, muốn bỏ chữ Hán đang dùng thì nhất thiết phải làm ra được một loại chữ viết mới có thể thay thế chữ Hán. Làm chữ viết là một công trình lao động khoa học cực kỳ phức tạp, đòi hỏi trí tuệ và thời gian rất nhiều năm, thậm chí hàng trăm năm. Nếu không làm được một loại chữ mới thích hợp thì chẳng thể bỏ được chữ Hán đang dùng.

Xu hướng bỏ chữ Hán trước tiên xuất hiện tại Nhật, rồi đến bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, cuối cùng là Trung Quốc. Tại Nhật, Triều Tiên-Hàn Quốc, Việt Nam, xu hướng này chủ yếu xuất phát từ mong muốn có một loại chữ viết ghi được tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình, thay cho chữ Hán đi mượn không làm được chức năng đó. Tại Trung Quốc, xu hướng bỏ chữ Hán xuất phát từ quan điểm cho rằng chữ Hán lạc hậu cản trở sự phát triển nền văn minh nước này.

Từ cuối thế kỷ XIX trở đi, xu hướng bỏ chữ Hán tại Đông Á trở thành phong trào lớn mạnh lan rộng với quy mô lớn, tốc độ ngày một nhanh. Phong trào này lúc lên lúc xuống, có nơi thành công, có nơi thất bại. Thập niên 1950, chính quyền Trung Quốc tổ chức công tác nghiên cứu bỏ chữ Hán với quyết tâm cao, quy mô lớn chưa từng thấy trên thế giới.

Thế nhưng phong trào nói trên thu được kết quả rất hạn chế: cho tới nay Trung Quốc và Nhật vẫn dùng chữ Hán như cũ nhưng có cải tiến đôi chút, chỉ bán đảo Triều Tiên và Việt Nam đã bỏ chữ Hán với mức độ khác nhau. Duy nhất Việt Nam tuy là nước chịu ảnh hưởng lớn và lâu dài nhất của văn hoá Trung Quốc, tiến trình bỏ chữ Hán bắt đầu muộn nhất, thực thi lặng lẽ nhất nhưng lại thành công hơn cả, hoàn toàn bỏ được chữ Hán, chữ Nôm, triệt để “Thoát Hán” về ngôn ngữ.

Dư luận Trung Quốc cho rằng nguyện vọng bỏ chữ Hán ở Nhật, Triều Tiên-Hàn Quốc, Việt Nam chủ yếu có động cơ chính trị, và bỏ chữ Hán là một chủ trương sai lầm, các nước này hiện đang hối tiếc về việc đó. Một số rất it người Việt Nam cũng tán thành quan điểm phiến diện ấy.

Theo chúng tôi, việc bỏ chữ Hán có thành công hay không, điều đó chủ yếu phụ thuộc vào tính chất ngôn ngữ của dân tộc muốn bỏ chữ Hán, nghĩa là phụ thuộc vào các nhân tố khách quan. Nói cách khác, không thể tiến hành thay đổi chữ viết theo ý chí chủ quan. Chữ Hán là chữ biểu ý duy nhất trên thế giới. Bỏ chữ Hán thì tất nhiên phải thay bằng một loại chữ biểu âm, như vậy nếu ngôn ngữ không thích hợp với chữ viết biểu âm thì không thể làm được chữ biểu âm cần có. Việt Nam bỏ chữ Hán thành công là nhờ ngôn ngữ Việt thích nghi với chữ biểu âm. Ngược lại, do Hán ngữ không thích nghi với chữ viết biểu âm nên tiến trình bỏ chữ Hán ở Trung Quốc bất thành.

Quá trình bỏ chữ Hán ở Đông Á kéo dài hơn nghìn năm để lại những bài học lịch sử có giá trị về nhiều mặt, đặc biệt về ngôn ngữ học (NNH), rất đáng để mọi người ôn lại, rút ra những điều bổ ích. Bài này trình bày tổng quan tình hình tiến trình “Bỏ chữ Hán” tại Nhật, bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, Trung Quốc, chủ yếu nói về mặt NNH trong tiến trình đó.

TÌNH HÌNH TIẾN TRÌNH BỎ CHỮ HÁN Ở NHẬT

Người Nhật thời cổ không có chữ viết. Đến thế kỷ III, chữ Hán qua Triều Tiên sang Nhật và từ thế kỷ IV-V thì chữ Hán chính thức được dùng ở nước này. Thế kỷ VI-IX thời Tuỳ-Đường (581-907) Trung Quốc đang giàu mạnh. Trong 264 năm từ năm 630 đến năm 895, Chính quyền Nhật hơn chục lần cử các đoàn sứ giả sau này gọi là “Khiển Tuỳ Sứ” và “Khiển Đường Sứ”, mỗi đoàn trên trăm người, nhiều nhất trên 500 người, sang Trung Quốc ở lại nhiều tháng học văn hoá Trung Hoa. Họ học tiếng nói, chữ viết, khoa học kỹ thuật, pháp luật, văn học nghệ thuật của Trung Quốc, tìm mua nhiều thư tịch, kinh sách Phật giáo, Nho giáo. Họ bê nguyên xi chữ Hán về dùng, gọi là Kanji (Hán tự). Loại chữ này được giới quý tộc và trí thức Nhật sùng bái.

Người Nhật trực tiếp dùng chữ Hán để ghi tiếng Nhật. Họ đọc chữ Hán theo hai cách khác nhau. Một là Cách đọc ON (từ Hán-Việt là Âm độc, tiếng Nhật là On-yomi, tiếng Anh là On-reading), tức cách đọc âm Hán-Nhật. Hai là Cách đọc Kun (Huấn độc, Kun-yomi, Kun-reading), tức cách đọc âm thuần Nhật, đọc theo nghĩa tiếng Nhật. Bộ chính sử đầu tiên của Nhật là “Nhật Bản Thư kỷ” và “Cố sự ký” viết bằng chữ Hán đã ra đời vào thế kỷ VIII, hình thành nền văn học chữ Hán ở Nhật.

Về sau, người Nhật nhanh chóng nhận thấy việc dùng chữ Hán như trên gây ra nhiều khó khăn, như phải dùng quá nhiều chữ, không ai có thể nhớ hết, hơn nữa chữ Hán không ghi được các từ thuần Nhật và thiếu nhiều từ Nhật như trợ từ, kính ngữ… Thế kỷ IX, người Nhật đã thành công khi làm ra chữ Kana, là loại chữ biểu âm kiểu âm tiết, gồm chữ Katakana và chữ Hiragana, ghi được các từ thuần Nhật. Từ đó trở đi họ dùng hỗn hợp cả 2 loại chữ biểu âm này cùng với chữ Kanji biểu ý, nhờ thế giảm được đáng kể (có tư liệu nói giảm được 5/6) số lượng chữ Kanji cần dùng.

Việc dùng chữ biểu âm ở Nhật không gặp trở ngại gây ra bởi tình trạng có nhiều chữ đồng âm như trong tiếng Trung Quốc, Triều Tiên. Đó là do Nhật ngữ thuộc loại ngôn ngữ đa lập (đa âm tiết, multisyllabic, mỗi đơn từ có không dưới 2 âm tiết), ví dụ yama (núi), kuruma (xe). Cấu tạo chữ kiểu tổ hợp âm tiết có khả năng tạo ra cực nhiều từ khác âm, tránh được nạn đồng âm.

Sau khi tiếp xúc văn hoá phương Tây, người Nhật nhận thấy, so với chữ Hà Lan, chữ Hán khó học khó dùng hơn nhiều. Trong thế kỷ XIX, người Nhật bắt đầu có phong trào phê phán chữ Hán lạc hậu, dùng chữ Hán chỉ làm tốn thời gian, nên bỏ chữ Hán. Năm 1866, tổ sư ngành bưu chính Nhật là Maejima Hisoka đầu tiên kiến nghị bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ Kana, nhưng chính quyền Mạc Phủ không chấp nhận. Đến thời Minh Trị, vào hai năm 1869, 1873, ông lại kiến nghị lên Thiên Hoàng, kết quả vẫn thế. Ông lập Hội chữ Kana, phát động phong trào chỉ dùng chữ Kana, xuất bản tạp chí và sách chỉ in chữ Kana. Năm 1884 có học giả đề nghị bỏ cả chữ Hán cùng chữ Kana, chỉ dùng chữ Romaji (tức dùng chữ Latin phiên âm tiếng Nhật). Quan chức đầu tiên phụ trách giáo dục - văn hoá trong Chính phủ Minh Trị là Akira Mori đưa ra ý tưởng dùng tiếng Anh thay cho tiếng Nhật. Năm 1946, nhà văn nổi tiếng Shiga Naoya đề nghị toàn dân bỏ tiếng Nhật, dùng tiếng Pháp… Tuy vậy Nhà nước phớt lờ các lời kêu gọi hoặc đề nghị ấy, vẫn dùng chữ Hán như cũ.

Thực tế cho thấy, ý tưởng bỏ chữ Hán rất khó thực hiện, đó là do chữ Hán đã thâm nhập cả nghìn năm vào đời sống người Nhật, tạo dựng được một nền văn hoá chữ Hán lâu đời rất phong phú. Bỏ chữ Hán có nghĩa là vứt bỏ di sản văn hoá truyền thống của tổ tiên, đa số người Nhật không chấp nhận sự đứt rời văn hoá ấy.

Chẳng những không bỏ chữ Hán, mà Nhật còn sáng tạo ra “Hoà chế Hán ngữ” (Hán ngữ do Nhật làm), đặt ra ngót nghìn từ ngữ chữ Hán như “văn hoá, văn minh, dân tộc, tư tưởng, pháp luật, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản v.v…” để chuyển ngữ chính xác các từ ngữ của văn hoá phương Tây. Đây là một cống hiến rất lớn cho sự phát triển Hán ngữ hiện đại. Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên- Hàn Quốc cũng được hưởng lợi. Một học giả Trung Quốc nói các “từ ngữ Hoà chế” ấy chiếm 70% số từ vựng Hán ngữ hiện đại, “không có các từ [hiện đại] ấy thi hiện nay chúng ta chẳng biết nói gì với nhau”.

Tiến trình bỏ chữ Hán ở Nhật chỉ bắt đầu sau Duy tân Minh Trị, khi Chính phủ Nhật tiếp thu tư tưởng “Thoát Á nhập Âu” của nhà tư tưởng Khai sáng nổi tiếng Fukuzawa Yukichi. Đầu thế kỷ XX, Nhà nước Nhật tiến hành cải cách chữ Hán theo hai hướng là giảm số lượng chữ Hán cần dùng và giản hoá tự hình chữ Hán.

Năm 1900, Chính phủ Nhật quy định giảm lượng chữ Hán cần dùng còn 2000-3000 chữ, bậc tiểu học chỉ học 1200 chữ. Năm 1919 đưa ra “Phương án Chỉnh lý chữ Hán” có 2600 chữ. Năm 1946 ban hành “Đương dụng Hán tự biểu” quy định chỉ dùng 1850 chữ Hán, gồm 131 chữ Giản thể. Năm 1949 ban hành “Đương dụng Hán tự tự thể biểu” có 774 chữ Giản thể, chỉnh lý tự hình của 800 chữ, xử lý các chữ Dị thể, xác lập vị trí của chữ Giản thể. Năm 1977 ban hành “Tân Hán tự biểu thí hành thảo án” gồm 1900 chữ Hán. Tháng 10/1981, công bố “Thường dùng Hán tự biểu” có 1945 chữ, gồm hơn 800 chữ Giản thể, và không cấm dùng các chữ Hán khác. Năm 2010 lại mở rộng thành 2136 chữ Hán; học sinh tiểu học phải biết 1026 chữ, trung học biết 1110 chữ.

Tấm gương thành công đơn giản hoá chữ Hán của người Nhật đã giúp người Trung Quốc thập niên 1950 chấm dứt cuộc tranh cãi phồn thể với giản thể, dứt khoát ủng hộ chữ giản thể.

Sau năm 1945, Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ chiếm đóng Nhật ra sức thúc đẩy phong trào bỏ chữ Hán. Họ tổ chức điều tra tình hình dùng chữ Hán trong dân bản xứ. Kết quả thật bất ngờ: hơn 95% người Nhật biết chữ Hán, chứng tỏ chữ Hán có cơ sở rất vững tại nước này; nếu bỏ chữ Hán, dùng chữ khác, thì 95% người Nhật lập tức trở thành mù chữ.

Hiện nay người Nhật dùng kết hợp chữ Kanji với chữ Katakana, chữ Hiragana và cả chữ Romaji, trong đó chữ Romaji được dùng để ghi tên người, tên đất, thương hiệu, ví dụ New York, Toyota, nhằm giảm số chữ Kanji cần dùng.

Tóm lại chữ viết của người Nhật hiện nay vẫn rất phức tạp, vừa biểu ý vừa biểu âm và không thể bỏ được chữ Hán, tuy từ thời Minh Trị họ đã thực hiện đường lối “Thoát Á nhập Âu”.

Hiện nay có gần 500 trường đại học và cao đẳng ghi điểm cho những thí sinh dự thi nhập học có đạt yêu cầu sát hạch chữ Hán. hàng năm có hơn 2,5 triệu người Nhật dự kỳ thi sát hạch năng lực biết chữ Hán. Vào cuối mỗi năm, “Hội Giám định Năng lực chữ Hán” của người Nhật đều nêu ra một số chữ Hán tiêu biểu cho năm đó, đề nghị dân chúng bỏ phiếu chọn lấy một chữ, gọi là “Chữ của năm” (niên độ Hán tự). Ví dụ năm 2000, vận động viên Nhật giành được nhiều huy chương Vàng tại Olympic Sydney, thế là chữ Kim 金 được chọn là chữ của năm ấy. Năm 2022 chọn chữ Chiến 戰 vì năm ấy nổ ra chiến tranh Nga xâm lược Ukraina làm dân Nhật lo lắng. Ngày 15/9 hàng năm được người Nhật chọn là “Ngày chữ Hán”. Nhìn chung, chữ Hán vẫn có địa vị rất cao ở Nhật.

(còn nữa)
Nguyễn Hải Hoành

7683 Nguyễn Hải Hoành 09/04/2023