Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > Thử tìm hiểu về cống hiến của Công Giáo trong lĩnh vực ngôn ngữ Việt
Thử tìm hiểu về cống hiến của Công Giáo trong lĩnh vực ngôn ngữ Việt
Chủ Nhật 26, Tháng Mười Một 2023, bởi
Tôn giáo là hiện tượng văn hoá phổ biến của xã hội loài người và có mặt từ rất sớm, tồn tại rất lâu dài trong tất cả các dân tộc. Người Việt Nam có nhiều tôn giáo nhỏ, không có tôn giáo riêng của toàn dân, về sau đã tiếp thu hai tôn giáo lớn của nước ngoài là Phật giáo và Công giáo.
Công giáo, tức Thiên Chúa giáo (Catholicism), là nhánh lớn nhất của Kitô giáo (Christianity, còn gọi Cơ Đốc giáo hoặc đạo Gia Tô). Kitô giáo kết hợp với nền văn hoá Hy Lạp-La Mã làm nên nền văn minh phương Tây và là tôn giáo có nhiều tín đồ nhất thế giới hiện nay (2,7 tỷ người). Các tôn giáo lớn đều có ảnh hưởng sâu rộng, tích cực và tiêu cực tới sự phát triển xã hội; trên thực tế đã có đóng góp rất quan trọng cho sự phát triển văn hoá-văn minh của nhân loại, để lại những di sản vật chất và tinh thần vô giá. Hồ Chí Minh luôn coi Phật Thích Ca, Chúa Jesus là những nhà hiền triết và xem mình là học trò nhỏ của các vị đó.
Công giáo đến nước ta rất muộn nhưng nhanh chóng tạo lập được chỗ đứng khá vững chắc trong xã hội, trước hết tại những vùng dân nghèo ven biển. Theo điều tra dân số năm 2019, Công giáo với hơn 5,86 triệu tín đồ là tôn giáo lớn nhất Việt Nam, và nước ta hiện xếp thứ 5 ở châu Á về tỷ lệ tín đồ Công giáo trong tổng số dân. Sự thực đó chứng tỏ Công giáo có những yếu tố văn hoá hợp lý và đã phát huy được những chức năng văn hoá tích cực nhất định đối với xã hội ta.
Cho dù vì nhiều lý do, quá trình phát triển Công giáo ở Việt Nam từng có không ít trục trặc, thậm chí điều tiếng, nhưng không thể phủ nhận tôn giáo này đã để lại dấu ấn sâu sắc vô hình và hữu hình trong lịch sử văn hoá nước ta. Đặc biệt, Công giáo đã góp phần rất quan trọng vào việc phát triển và hiện đại hoá ngôn ngữ của dân tộc ta và qua đó đưa nền văn minh Việt tiến một bước dài vượt xa mấy nghìn năm trước.
Có điều, vì cống hiến đó thuộc lĩnh vực phi vật thể, khó quan sát thấy nên không được nhiều người để ý đến, ít được giới học giả nước ta nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu. Ngoài ra cũng có thể có những nguyên nhân tế nhị khác ngăn cản việc đề cập vai trò của tôn giáo và nghiên cứu tôn giáo, ví dụ quan điểm coi tôn giáo là “thuốc phiện của nhân dân”.
Với mong muốn tìm hiểu và xác định một sự thật lịch sử ít được nhắc tới, chúng tôi mạo muội thử bàn về cống hiến của Công giáo trong lĩnh vực ngôn ngữ Việt. Đây là vấn đề rất phức tạp, liên quan đến lịch sử và những vấn đề chính trị tế nhị, tác giả lại không chuyên về lịch sử và ngôn ngữ, vì thế bài viết khó tránh khỏi có sai sót, mong mọi người chỉ bảo.
Sử học Công giáo Việt Nam cho rằng Kitô giáo đến nước ta từ năm 1533. Nhưng có lẽ chỉ từ đầu thế kỷ XVII, khi các giáo sĩ Dòng Tên (Dòng mang tên Chúa Jesus, The Society of Jesus, 耶稣会) đến Việt Nam truyền giáo thì tôn giáo này mới phát triển mạnh, dần dần có chỗ đứng vững chắc. Năm 1612, các giáo sĩ người Âu truyền bá Kitô giáo ở Nhật bất ngờ bị chính quyền Nhật trục xuất. Họ về tạm trú tại Macau (thuộc địa Bồ Đào Nha ở Quảng Đông), tại đây họ học ngoại ngữ và giáo lý trong thời gian chờ công tác mới. Từ năm 1615 Vatican bắt đầu cử các nhà truyền giáo (còn gọi là Thừa sai) đến Việt Nam truyền bá Kitô giáo. Sử sách có chép việc các giáo sĩ Dòng Tên như Francesco Buzomi (người Ý), Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), Christoforo Borri (Ý) rồi Alexandre de Rhodes (Avignon), Girolamo Maiorica (Ý)… lần lượt đến nước ta.
Dòng Tên (tức Dòng Chúa Jesus, Society of Jesus) gồm các giáo sĩ chẳng những giàu tinh thần xả thân vì sự nghiệp truyền giáo mà đều có trình độ văn hoá cao, có tài liệu nói họ đều đạt học vị Tiến sĩ thuộc nhiều ngành khoa học tự nhiên và xã hội, đến đâu họ cũng chịu khó học ngôn ngữ, hoà nhập phong tục tập quán của địa phương và truyền bá văn hoá, khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm khai hoá cho dân chúng nơi họ đến, thậm chí làm cả chữ viết cho người bản xứ. Để truyền giáo, trước hết họ phải học tiếng nói của người bản xứ, mà cách học hiệu quả nhất là học cả chữ viết (nếu có). Tiếng nói bị hạn chế về không gian (không truyền xa được) và thời gian (không tồn tại sau đó). Chữ viết là ký hiệu thị giác ghi lại được tiếng nói và không bị các hạn chế như trên, vì thế chữ viết tạo điều kiện tốt nhất để học tiếng, không biết chữ thì rất khó ghi nhớ tiếng nói. Chữ Nôm ghi được tiếng Việt, nhờ thế, qua tác phẩm chữ Nôm “Truyện Kiều”, chúng ta mới biết được ngày xưa tổ tiên ta nói tiếng Việt như thế nào. Học tiếng Anh, tiếng Trung Quốc tất phải học chữ Anh, chữ Hán. Không ai dại dột chỉ học tiếng mà không học chữ, vì như thế không thể giỏi tiếng được.
Bởi vậy các nhà truyền giáo Dòng Tên – những nhà ngôn ngữ học tài giỏi ấy đến xứ nào cũng học bằng được chữ viết của xứ ấy. Như Matteo Ricci (người Ý) đến Trung Quốc truyền giáo đã nghiên cứu sâu về chữ Hán, năm 1612 làm ra phương án Latin hoá ký tự ghi âm đọc chữ Hán, rồi soạn sách chữ Hán giới thiệu Hình học Euclid. Giáo sĩ Thomas Morrison 25 tuổi đến Trung Quốc truyền giáo, biên soạn được bộ “Hoa-Anh Tự điển” đầu tiên, dịch “Kinh Thánh” ra chữ Hán…
Các giáo sĩ đến Việt Nam đều hăng hái học tiếng Việt, sống theo phong tục tập quán của dân ta. Là những nhà ngôn ngữ học, dĩ nhiên khi học tiếng Việt, họ không thể không học chữ Nôm, tương tự như họ từng học chữ Hán khi đến truyền giáo ở Trung Quốc hoặc Nhật. Việc biết chữ Hán và từng nghiên cứu Latin hoá chữ Hán ở Trung Quốc và Nhật giúp họ có thuận lợi khi học chữ Nôm. Giáo sĩ de Pina năm 1617 đến Việt Nam, năm 1620 đã dùng chữ Nôm biên soạn tài liệu giáo lý và giảng đạo bằng tiếng Việt, ông là người có đóng góp lớn vào việc dùng chữ cái Latin ghi âm tiếng Việt. Giáo sĩ Maiorica năm 1624 đến Việt Nam, năm 1632 viết xong tác phẩm văn học chữ Nôm đầu tiên. Tổng cộng ông đã viết ít nhất 45 tác phẩm chữ Nôm, trong đó có “Ông Thánh I-na-xu truyện”. Hiện Thư viện Quốc gia Pháp còn giữ được 15 tác phẩm chữ Nôm của Maiorica, tổng cộng 4200 trang với 1,2 triệu chữ Nôm.
Trong quá trình học tiếng Việt và chữ Nôm, các giáo sĩ người Âu đã dùng chữ cái Latin abc để ghi âm đọc của chữ Nôm, tức làm cái việc gọi là phiên âm chữ Nôm. Qua đó họ phát hiện chữ Nôm có tính biểu âm (phonographic) rất rõ rệt, có thể ghi được tất cả các âm tiếng Việt. Tính biểu âm tạo điều kiện để dùng chữ cái Latin phiên âm được chữ Nôm, hứa hẹn khả năng làm ra một hệ chữ viết biểu âm Latin hoá cho tiếng Việt, qua đó tạo thuận lợi lớn cho việc truyền giáo ở Việt Nam. Năm 1612 Matteo Ricci từng bước đầu thành công dùng chữ cái Latin ghi âm chữ Hán, nhưng ông lại thất bại khi dùng cách phiên âm hoá chữ Hán nhằm làm ra một loại chữ Latin hoá thay cho chữ Hán. Qua đó các giáo sĩ hiểu rằng nguyên nhân thất bại là do chữ Hán chủ yếu có tính biểu ý (ideographic), không biểu âm. Bởi vậy khi thấy chữ Nôm vừa có tính biểu ý lại có tính biểu âm, họ tin rằng việc dùng chữ cái Latin ghi âm chữ Nôm nhất định sẽ thành công. Nhóm giáo sĩ kể trên đã hăng hái bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu dùng chữ cái Latin thay cho chữ Nôm vuông. Họ cũng thống nhất xác định được tiếng Việt có 6 thanh điệu, sau đó còn xác định được hình dạng ký hiệu ghi thanh điệu tiếng Việt—một công việc phức tạp cần khá nhiều thời gian. Cuối cùng họ đã phiên âm thành công chữ Nôm, làm ra được hệ chữ viết biểu âm Latin hoá, hiện đại hoá mà về sau dân ta gọi là chữ Quốc ngữ. Bộ Từ điển Việt–Bồ–La (tiếng Latinh: Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) do Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 tại Roma đánh dấu sự ra đời loại chữ viết mới này.
Tiếp đó, trong mấy trăm năm kể từ khi chữ Quốc ngữ ra đời cho tới lúc được chính thức công nhận (1651-1919), các giáo sĩ người Việt đã kế thừa và phát triển truyền thống dùng chữ Nôm của các giáo sĩ người Âu nói trên. Họ đã dùng chữ Nôm biên soạn rất nhiều bài giảng giáo lý, hình thành cái gọi là “Chữ Nôm Công giáo”. [1]
Đến năm 1919, chữ Quốc ngữ mới được chính thức công nhận và phổ cập, sử dụng. Các giáo sĩ—tác giả phát minh kiệt xuất này không bao giờ biết rằng họ đã làm ra một ngôn ngữ viết được chí sĩ Trần Quý Cáp tôn vinh là Hồn nước Việt, và học giả Phạm Quỳnh gọi là công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ của người Việt Nam. Chữ Quốc ngữ tuy còn có chỗ chưa hoàn hảo nhưng về cơ bản thực hiện được yêu cầu khó nhất đối với ngôn ngữ viết, là nói thế nào viết thế ấy và viết thế nào đọc thế ấy, rõ ràng trội hơn hẳn hai loại chữ vuông nước ta từng dùng là chữ Nho (tức chữ Hán đọc theo âm Hán Việt) và chữ Nôm.
Việt Nam trở thành dân tộc đầu tiên ở châu Á được sở hữu loại chữ viết tiên tiến nhất – chữ biểu âm Latin hoá. Đây là thành quả kết hợp văn minh phương Tây với văn minh Việt, là quà tặng vô giá của Công giáo La Mã trao cho dân tộc ta. Chữ Quốc ngữ trở thành nguồn sức mạnh vô tận đưa nền văn minh Việt cất cánh bay lên tầng cao chưa từng thấy trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và hoà nhập với nền văn minh toàn cầu. Các thành tựu văn hoá Việt trong hơn 100 năm qua chứng tỏ chữ Quốc ngữ thực sự đã giải phóng trí tuệ của một dân tộc từng khốn khổ vì bao năm không có được loại chữ viết tương thích với ngôn ngữ nói cực kỳ phong phú của mình.
Chữ Quốc ngữ còn có một cống hiến phi thường là bảo vệ dân tộc ta không bị đồng hoá bởi nền văn hoá Pháp. Dân tộc Pháp có một nền văn hoá phát triển; Paris thế kỷ XIX từng mang tên “Kinh đô Ánh sáng” (Ville de Lumière), được hiểu là trung tâm văn hoá của thế giới. Thực dân Pháp sau khi chiếm các thuộc địa thường ép dân bản xứ nói tiếng Pháp, dùng chữ Pháp. Các nền văn hoá phát triển cao có sức thu hút mạnh, thường dễ được các nền văn hoá kém phát triển hấp thu – đây là một quy luật phổ biến, nhất là khi nền văn hoá phát triển cao đó ở vào địa vị thống trị. Nhiều dân tộc thuộc địa Pháp ở châu Phi do bị đồng hoá mà đã chuyển sang nói tiếng Pháp rồi dần dần bỏ tiếng mẹ đẻ. Thực dân Pháp cũng muốn đồng hoá dân tộc ta theo cách đó. Khi diễn thuyết bằng tiếng Pháp trước Viện Hàn lâm Pháp (Paris, 1922), chàng thanh niên Phạm Quỳnh 30 tuổi công khai phê phán Chính phủ thực dân “đang dạy tiếng Pháp cho dân chúng tôi từ nhỏ đến lớn như hiện nay, kết quả chỉ làm cho chúng tôi mất giống Việt Nam.” Nghĩa là ông phản đối chính sách đồng hoá dân tộc ta về ngôn ngữ. Sau khi nhậm chức Thượng thư Bộ Học (tương đương Bộ trưởng Giáo dục ngày nay) trong chính quyền Nam Triều, Phạm Quỳnh đã giành được từ tay chính quyền Pháp quyền quyết định ở bậc tiểu học chỉ dạy tiếng Việt và chữ Quốc ngữ, đến bậc trung học cơ sở bắt đầu mới dạy tiếng Pháp, qua đó đánh bại mưu toan đồng hoá dân tộc ta. Thực dân Pháp chấp nhận như vậy vì chúng thấy dùng chữ Quốc ngữ là đủ để khai hoá xứ này mà không cần dùng tiếng Pháp, vả lại việc dạy tiếng Pháp rất tốn kém và cần thời gian lâu dài.
[1] Ghi chú:
- https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nhan-xet-ve-tam-quan-trong-cua-chu-nom-cong-giao-40222. Nhận xét về tầm quan trọng của chữ Nôm Công giáo. Ngày 30/06/2020.
- https://tailieu.vn/doc/khai-luoc-ve-han-nom-cong-giao-2143302.html. Ngày 27/06/2019.
TS Nguyễn Hải Hoành 25/11/2023