Từ anh khóa, thầy đồ, đến ông quan (2)

IV. Thập niên đăng hỏa

Trước kia, người Tàu truyền bá chữ Nho vào Giao Châu là để dân ta biết đọc biết viết mà giao tiếp với họ, giúp họ trong công việc cai trị và khai hóa dân bản xứ. Dần dà người Tàu mở mang việc học hành, tổ chức việc thi cử, để tuyển chọn người thừa hành, giúp việc cho chính quyền đô hộ, và cả cho chính quốc. Ngoại trừ giới tăng lữ học chữ Nho để đọc kinh đọc kệ, đối với những người khác, học chữ Nho là để được tuyển dụng ra làm việc nhà nước. Kịp đến khi Giao Châu dựng cờ tự chủ thì chữ Nho vẫn là văn tự chính thức, việc học hành thi cử vẫn na ná như trước kia, vẫn ít nhiều mô phỏng khuôn mẩu của Trung Quốc, và tinh thần giới nho sĩ thì trước sau như một, từ Lý Trần đến Lê Nguyễn, vẫn là ra sức mở mang tri thức và trau dồi phẩm hạnh để thực hiện 3 mộng tưởng lớn trong đời: ‘Đỗ Tiến sĩ, Làm Thượng thư, và Đi Sứ’.

Mười năm đèn sách quả đã chứa đựng không biết bao nhiêu là công tình. Công là công lao bản thân dùi mài kinh sử, là công lao gia đình chạy tiền chạy gạo, là công lao thầy học roi đòn dạy dỗ. Tình là tình nghĩa cha mẹ hy sinh lạc thú bản thân để nuôi nấng, chăm sóc, khuyến khích con cái cố học thành tài, là tình nghĩa họ hàng, làng nước tôn trọng người học trò hôm nay còn hàn vi nhưng mai kia có thể làm rạng danh tông môn, hương đảng, là tình nghĩa người vợ tao khang biết xem nhẹ tình chăn gối để thúc dục chồng thức khuya dậy sớm, nấu sử sôi kinh, ngõ hầu ‘mai kia chồng chiếm bảng vàng, võng anh đi trước võng nàng theo sau’.

Tiến trình thập niên đăng hỏa bắt đầu khi đứa trẻ lên 5, lên 7, bằng lễ Khai tâm tại gia hoặc lễ Nhập môn ở trường học. Nếu đứa trẻ học vỡ lòng tại nhà với cha anh hay với thầy đồ nuôi trong nhà thì trước hết phải ăn mặc chỉnh tề để làm lễ yết cáo Thánh sư, lễ khấn cáo gia tiên, và lễ bái lạy thầy học, xong rồi bắt đầu buổi học đầu tiên, thường là học thuộc lòng mấy chữ trong Tam tự kinh. Nếu đứa trẻ theo học một trường tư thục của thầy đồ thì cha mẹ dắt con đến nhà thầy với một mâm lễ trầu cau xôi gà để làm lễ Nhập môn. Nếu làng có Văn chỉ thì thầy đồ sẽ cùng cha mẹ đứa trẻ đưa mâm lễ vật ra đấy để cho đứa trẻ bái yết Thánh sư, rồi mới trở lại trường làm lễ bái sư, và cho đứa trẻ bắt đầu bài học vỡ lòng. Chương trình học là chương trình ấu học và tiểu tập. Sách học buổi đầu là Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi. Tập viết chữ thì khởi đầu tập đồ trên bảng gỗ bằng bút tre nhúng nước, tiếp đến dùng bút lông tô mực theo chữ son viết sẵn trên giấy, rồi tập viết phóng, viết buông, viết chữ hàng đôi, hàng ba. Đến 7 tuổi học Sử, Truyện, Luận ngữ. Đến 9, 10 tuổi học làm câu đối và thơ văn, và tập viết ám tả. Cậu học trò nhỏ còn được rèn luyện phẩm hạnh, phép tắc, biết lẽ phải trái, biết kính trên nhường dưới, thông suốt đạo tam cương, ngũ thường. Học giỏi thì được thưởng giấy mực, bị phê liệt thì phải quét nhà, ăn roi vọt hoặc luồn khố.

Khi được từ 11 đến 14 tuổi, cậu bé theo chương trình trung tập, vẫn tại trường thầy đồ trong làng, hay tại trường các quan Huấn đạo, Giáo thụ ở phủ huyện. Sách học gồm Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bắc sử, Nam sử, Bách gia chư tử (11), Đường Tống bát đại gia (12). Hàng ngày đọc và nghe giảng nghĩa sách, tập viết chữ hàng sáu, hàng tám. Hàng tuần học làm văn: đối thơ 7 chữ, đối phú 8 chữ, kinh nghĩa, văn sách, chiếu, biểu. Học trò lấy đầu đề đem về nhà làm bài, hôm sau nộp. Thầy chấm xong, lựa các đoạn hay, bài hay, đưa ra bình văn.

Khoảng 15, 16 tuổi trở lên, nếu học giỏi thì lên tỉnh theo chương trình đại tập ở trường quan Đốc học, hay các trường tư của các quan cư tang hay hưu trí, để luyện thi Hương. Năm 1825, đời Minh Mạng, định lệ khóa tập làm văn tiến hành hàng tháng ở nhà Học vào các ngày 3, 9, 17, 25, chiếu theo đầu bài 4 kỳ thi Hương, có yết bảng để khuyến khích. Trước mỗi kỳ thi Hương lại có tổ chức thi thử, làm bài ngay tại trường. Lúc này, người học trò trẻ tuổi đã tạm đủ kiến thức nên được cho đi thi khảo. Trúng tuyển thi khảo thì được gọi là Khóa sinh, được miễn sưu dịch và được đi thi hạch để ghi tên vào danh sách những người có đủ khả năng thi Hương chuyển đệ về bộ Lễ. Trúng tuyển thi hạch thì là Thí sinh, nhưng tùy theo tuổi tác vẫn được mọi người chung quanh gọi là anh Khóa, thầy Khóa, hay ông Khóa, ngoại trừ người thi hạch đỗ đầu thì được gọi là ông Đầu xứ.

Đến ngày Vua xuống chiếu mở khoa thi, anh Khóa sửa soạn lều chõng lên đường. Hành trang gồm có bộ gọng lều và cuộn vải sơn (hoặc giấy dầu) để căng mái che mưa nắng, cái chõng tre và chiếc chiếu để ngồi làm bài, cái yên gỗ để kê quyển lên trên mà viết, cái ống quyển để cất quyển thi, cái bầu be để chứa nước uống, cái tráp sơn để đựng nghiên bút, giấy mực, các thứ lặt vặt như dao kéo, dùi nhọn và chỉ giấy xe tẩm sáp để phòng khi phải đóng quyển mới, vài cây đèn sáp, mồi lửa bùi nhùi, vàng mã và một ít thức ăn làm sẵn. Trước kỳ thi 3, 4 tuần, thí sinh phải nộp cho quan Đốc học 3 quyển thi, trên mặt quyển có ghi rõ tên họ, niên canh, quê quán, và cung khai tam đại. Nếu được vào phúc hạch thì quyển thứ tư sẽ đệ nộp sau. Trước ngày lên đường, bà con họ hàng thường đến thăm và giúp đỡ tiền lộ phí. Trừ những người may mắn ở gần trường thi, đa số sĩ tử phải đi xa, hoặc đi bộ, hoặc đi thuyền, có khi cả nửa tháng trời mới tới nơi thi. Con em nhà giàu đi thi có người nhà đi theo mang hộ lều chõng, con em nhà nghèo phải tự mang lấy. Mỗi lần đi thi là mỗi lần tốn kém,’nhị niên tử tam ngưu’ (6), nào tiền ăn, tiền nhà trọ, tiền đò giang, tiền thù tạc, kéo dài hơn cả tháng trời.

Trường thi gồm có: Khu Thí sinh chia làm 4 vi giáp ất tả hữu, khoa nào quá đông thí sinh thì mỗi vi lại chia thành 2 phân vi nhất nhì, chính giữa khu là nhà Thập đạo; Khu Khảo quan chia làm Nội trường dành cho các Sơ khảo, Phúc khảo, Giám khảo, Giám sát Ngự sử nội trường cùng các lại viên, và Ngoại trường dành cho Chánh Phó Chủ khảo, Phân khảo cùng Giám sát Ngự sử ngoại trường và lại phòng; và Khu Đề tuyển (12) nằm giữa Nội trường và Ngoại trường. Trước ngày thi 6, 7 hôm, quan Đốc học chuyển quyển thi đến trường thi. Trước ngày thi 3, 4 hôm, các Khảo quan tiến trường và ăn ở luôn trong trường cho đến khi thi cử xong xuôi. Đề tuyển ngoại trường đóng dấu Diện lên mặt quyển thi, Đề tuyển nội trường đóng dấu Giáp phùng lên giữa trang 2 và trang 3. Các Đề tuyển chia thí sinh ra làm 4 vi, đôn đốc lại phòng đóng sổ ghi số hiệu các quyển thi, và rọc phách, rồi lập danh sách thí sinh từng vi để kịp trước ngày thi 1 hôm treo bảng Yết danh cùng bảng Trường quy (13) trước cửa mỗi vi.

Đến ngày thi, từ đầu canh ba, sĩ tử tụ họp ở cửa trường để nghe điểm danh. Nghe gọi đến tên, thí sinh dạ to rồi mang lều chiếu tiến vào cổng trường để lính kiểm soát, xong nhận quyển và tiến vào vi tìm chỗ cắm lều ngồi làm bài thi. Đến trưa thì cầm quyển lên nhà Thập đạo xin dấu Nhật trung. Nếu cánh quyển (quyển thi bị tì ố phải thay quyển thi mới) thì phải mang theo cả quyển cũ lên nhà Thập đạo để xin đóng dấu Giáp phùng vào quyển mới. Làm bài xong, đếm số tẩy xóa ghi vào khoản Cộng quyển nội rồi đem nộp quyển cho Đề tuyển ở nhà Thậo đạo. Bấy giờ người thí sinh mới dọn dẹp đồ đạc, nhổ lều ra về, chờ kết quả. Nếu trúng tuyển thì được vào thi trường kế tiếp, mọi chuyện lại diễn tiến y như lần trước, chỉ duy số lượng thí sinh thì giảm xuống hơn nửa phần. Nếu trót lọt cả 3 trường, nghĩa là tổng số điểm từ 40 trở lên thì được vào phúc hạch (14). Trước ngày thi phúc hạch 1 hôm, thí sinh phải đến trường nộp 1 quyển thi mới cho Đề tuyển. Lúc này vào được trường 4, thí sinh còn rất ít, mà khoa danh cũng đã gần kề, không Cử thì cũng Tú.

Thí sinh vào phúc hạch thì làm 1 đạo Văn sách, 1 bài Phú, và 1 bài Luận quốc ngữ. Được từ 7 điểm trở lên thì đỗ Cữ Nhân. Thí sinh vào phúc hạch không đỗ được Cử Nhân, và thí sinh đã thi 3 trường có tổng số điểm từ 30 đến 39, tất cả được xếp vào hàng Tú Tài để theo thứ tự lấy đỗ theo lệ nhất Cử tam Tú. Việc công bố danh tánh các ông Cử Nhân tân khoa được diễn ra ở cổng trước trường thi và gọi là lễ xướng danh. Sau đó, trường cho yết bảng Cử Nhân (Hổ bảng) ở cửa vi Giáp và bảng Tú Tài (Mai bảng) ở cửa vi Ất. Người đỗ đầu cử nhân được dân chúng gọi là Thủ khoa hoặc Giải nguyên. Các Cử Nhân được ân tứ mũ áo, vải vóc, tiền bạc, và được ban yến Lộc minh. Trước khi dự tiệc, các vị tân khoa làm lễ bái vọng nhà vua và lễ bái tạ các khảo quan tại Thí viện, hoặc tại Hành cung, hoặc tại dinh Tổng Đốc. Sau đó, mỗi vị được quan Tổng Đốc tặng 1 cái lọng xanh để vinh quy bái tổ. Về tới bản quán, vị tân khoa vào chào quan huyện sở tại rồi được hương lý và thân thuộc rước về làng làm lễ bái tổ ở từ đường, bái tạ Thành hoàng và Thánh sư ở đình miếu, và dự tiệc khao vọng. Khao vọng là chuyện không thể thiếu. Tục ngữ có câu: ‘Vô vọng bất thành quan’.Vị tân khoa được mọi người trọng vọng gọi là quan Cử. Thế là anh Khóa đã trở thành ông Quan, cho bõ công tình mười năm đèn sách, và khỏi phụ lòng kỳ vọng của người vợ tấm cám đã ‘chẳng tham ruộng cả ao liền, tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.’

V. Tiến vi Quan, thoái vi Sư

Quan Cử có thể tiếp tục dùi mài kinh sử để năm sau lều chõng đi thi Hội, hoặc nằm chờ sắc chỉ bổ dụng làm quan, thông thường là Huấn đạo, Giáo thụ ở phủ huyện, hay chức Hành tẩu ở Lục Bộ, vào hàng thất, bát phẩm, với hàm Hàn Lâm viện Đãi Chiếu, hoặc Cung Phụng (15). Trừ những trường hợp đặc biệt, hoạn lộ của người đỗ Cử nhân thường được gọi là Hương khoa Huyện lệnh, nghĩa là chỉ làm đến Tri huyện Tri phủ là cùng. Phải đi thi Hội thi Đình để đậu Đại khoa, nhiên hậu mới làm tới Đại thần.

Trước kia, vào đời Lê, những người đỗ Tiến sĩ được chia làm Cập đệ, Chánh bảng, và Phụ bảng. Đến năm 1484, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa cải gọi là Tiến sĩ Cập đệ, Chánh bảng là Tiến sĩ Xuất thân, và Phụ bảng là Đồng Tiến sĩ Xuất thân. Sang triều Nguyễn, mãi đến năm 1822, đời Minh Mạng mới mở khoa thi Hội đầu tiên, và sau kỳ Điện thí, vì là ân khoa, những người trúng tuyển chỉ còn được phân làm 2 hạng Tiến sĩ và Đồng Tiến sĩ xuất thân. Từ khoa Hội thí năm 1829, bài thi Hội được chấm theo phân số tính từ 1 đến 10. Không được 1 phân là liệt, bị loại ngay. Đỗ cả 3 kỳ với tổng số điểm từ 10 phân trở lên được xếp vào Chánh bảng. Đỗ cả 3 kỳ với phân số từ 4 đến 9, và đỗ 2 kỳ nhưng phân số được 10 phân trở lên thì được xếp vào Phó bảng, cũng được vào Đình thí, nhưng không phải là hàng Giáp đệ (16). Trước kia, chỉ có Cử nhân chưa ra làm quan mới được đi thi Hội. Từ khoa Hội thí năm 1884, đời Thiệu Trị, có định lệ cho Giáo thụ và Huấn đạo do Cử nhân xuất chính, và các Giám sinh và Tú tài xuất thân được dự thi Hội. Từ năm 1850, đời Tự Đức, định lại lệ thi Hội 4 trường, đỗ cả 4 trường thì được vào Đình thí, nếu bài Đối sách được 4 phân trở lên thì đỗ Giáp đệ, được 3 phân trở xuống là Phó bảng.

Như vậy, rõ ràng có sự khác biệt giữa Phụ bảng đời Lê với Phó bảng đời Nguyễn. Phụ bảng đời Lê vẫn thuộc hàng Giáp đệ. Phó bảng đời Nguyễn thời Minh Mạng là đỗ vớt Hội thí, tuy được vào thi Đình, nhưng được xếp vào bảng riêng, không được truyền lô, không dự vào hàng Giáp đệ. Phó bảng đời Nguyễn cuối triều Tự Đức được quyết định trong kỳ thi Đình. Lại còn có vấn đề nhập nhằng trong ngôn ngữ dân gian về danh vị ‘quan Bảng, cụ Bảng’. Quan Bảng, Cụ Bảng đời Nguyễn là Phó bảng chứ không phải là Bảng nhãn đời Trần và Lê sơ. Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa ‘quan nghè’ của miền Bắc với ‘thầy nghè’ của vùng Huế. Quan nghè là người đỗ Tiến sĩ. Thầy nghè là Thừa phái ở Lục Bộ và phủ huyện. Người đỗ Đại khoa sau khi vinh quy bái tổ là được bổ dụng ngay, Phó bảng đi Tri huyện, hàng lục phẩm, Tiến sĩ đi Tri phủ, hàng ngũ phẩm, rồi từ đấy hoạn lộ thênh thang, thường thường lên đến ngôi vị Đại thần đứng đầu một địa phương (Tổng đốc) hay lương đống ở chốn triều miếu (Thượng thư).

Nhưng tiến trình sự nghiệp của người theo học đạo Nho không phải duy nhất chỉ có mỗi một hướng ‘tiến vi quan’. Thật vậy, tôn chỉ của đạo Nho không phải giản đơn là gắng học để thi đỗ ra làm quan (17), mà chủ yếu là học tập đạo lý Thánh Hiền để rèn luyện bản thân nên người vừa có kiến thức, vừa có đạo đức, để ‘tùy thời xuất xử’. Gặp đời thịnh trị, lương tể minh quân, người theo học đạo Nho ra tay kinh bang tế thế, giúp vua trị nước, biết xem nhẹ quyền lợi riêng tư để dốc lòng chăm lo phúc lợi đại chúng. Nhà Nho hiển đạt ‘biết lo trước cái lo của thiên hạ, và chỉ vui sau cái vui của thiên hạ’ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Gặp đời suy đốn, tôi nịnh vua hèn, người theo học đạo Nho ‘thoái vi sư’, nghĩa là lui về ở ẩn, cam phận hàn nho, mở trường dạy học, rèn luyện môn đồ vun trồng nghĩa khí sĩ phu, giữ gìn tiết tháo người quân tử, biết tôn trọng thầy, biết hiếu kính cha mẹ, biết phép tắc lễ nghi, biết trước khi học văn phải lo học lễ, không xu phụ kẻ quyền thế, không ruồng rẫy vợ tao khang, không bỏ rơi bạn nối khố thuở hàn vi, và nhất là luôn luôn giữ mình theo chính đạo,‘giàu sang không hoang dâm, nghèo hèn không đổi chí, uy vũ không chịu khuất’ (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất).

Tiến vi quan có nghĩa là ra làm việc với triều đình, thụ hưởng ơn vua lộc nước. Thoái vi sư là lui về mở trường dạy học trò, đứng ngoài hệ thống triều chính. Bởi vậy, những vị học quan phụ trách việc dạy học trò như Huấn đạo, Giáo thụ, Đốc học, Tư nghiệp, Tế tửu, Phụ đạo, vẫn là những vị tiến vi quan. Mặt khác, những vị thoái vi sư không nhất thiết là những ông quan từ nhiệm, mà bao gồm cả những ông quan hưu trí, cư tang, những người học giỏi nhưng ở ẩn không đi thi, và những người lận đận trường ốc. Có thể kể một vài vị thoái vi sư nổi tiếng: cáo quan như Chu Văn An đời Trần, cáo lão như Nguyễn Bỉnh Khiêm đời Mạc, ẩn dật như La sơn phu tử đời Tây sơn, hưu trí như Nguyễn Khuyến, cư tang như Nguyễn Đình Chiểu, lận đận trường ốc như Trần Tế Xương đời Nguyễn. Ngoại trừ các vị Khoa bảng mở các buổi bình văn theo chương trình đại tập, các vị thoái vi sư mở lớp dạy học trò được người đời gọi là Thầy Đồ.

Thầy Đồ ngồi dạy học tại tư gia các phú hộ, được nuôi cơm và cung ứng quần áo, hoặc có thể mở trường tư tại nhà riêng. Thầy Đồ có thể có cùng lúc một số học trò có trình độ khác nhau: học vỡ lòng, học chương trình ấu học, tiểu tập, hoặc trung tập. Thầy Đồ thường chọn trong số học trò theo học một người lớn tuổi và học khá nhất làm Trưởng Tràng, giúp đỡ Thầy Đồ trong việc trông nom kềm cặp các học trò học vỡ lòng hoặc học kém. Thầy Đồ nào cũng có một cây roi mây dài để phạt học trò. Bổng lộc của Thầy Đồ rất khiêm tốn. Tiền học mỗi học trò trả cho Thầy Đồ mỗi năm chỉ 4, 5 quan tiền, ngày tư ngày Tết thì tùy hỉ, con gà, đĩa xôi, chiếc bánh, be rượu, hậu bạc thế nào cũng xong, chỉ cốt đủ lễ nghĩa. Bởi vậy, Thầy Đồ thường kiêm thêm nghề bốc thuốc, và viết mướn đối liễn. Thầy Đồ nuôi nổi thân mình đã là may, việc con cái, nhà cửa đều trút hết lên vai bà Đồ. Tuy nghèo nhưng Thầy Đồ rất mực quan tâm tới việc giữ gìn phẩm hạnh, vừa để xiển dương đạo lý Thánh Hiền, vừa để làm mẫu mực cho học trò noi theo, vì vậy, Thầy Đồ rất được mọi người quý trọng.

VI. Kết Luận

Trên tiến trình sự nghiệp của người học chữ Nho trong xã hội phong kiến thời trước, Thầy Đồ là vị trí trung gian giữa Anh Khóa và Ông Quan. Lúc còn trẻ, Anh Khóa ‘niên thiếu công danh’ thi đỗ, tức khắc trở thành Ông Quan. Anh Khóa trong lúc hăm hở dùi mài kinh sử để tiến vi quan đã có lúc tạm làm Thầy Đồ. Lúc lớn tuổi, thi mãi không đỗ, Anh Khóa trở thành Ông Khóa ‘lạc tri thiên mệnh’ (vui biết mệnh trời), cam lòng thoái vi sư, tiếp tục làm Thầy Đồ. Ông Quan rong ruỗi trên hoạn lộ, gặp phải thời thế không thuận lợi, hoặc giả đến lúc lớn tuổi, ngựa nản chân bon, bèn quyết chí thoái vi sư, cáo quan lui về dạy học, tuy không ai gọi là Thầy Đồ, nhưng trong thực tế đúng là Thầy Đồ. Thành thử, Anh Khóa, Thầy Đồ, Ông Quan, cả ba tạo thành cái thế chân vạc thành phần của một giai cấp xã hội gọi là sĩ phu hay kẻ sĩ. Kẻ sĩ đứng đầu tứ dân trong xã hội cũ. Ở chốn triều miếu, kẻ sĩ là chính cương chính sách, là mưu lược trị quốc an dân. Ở nơi hương đảng, kẻ sĩ là mẩu mực đạo đức luân thường, là ngọn đuốc soi sáng chính đạo và hướng dẫn công luận. Kẻ sĩ được từ Vua đến Dân quý trọng và nghe lời. Được vậy là vì kẻ sĩ theo học đạo Nho. Kẻ sĩ là nhà Nho, chứ không giản đơn chỉ là người được đào tạo để ra làm quan. Cho dù là hàn nho, hiển nho, hay ẩn nho, nhà Nho là người theo học đạo Thánh Hiền từ tuổi ấu thơ, và suốt đời chăm chăm chú chú xiển dương và truyền bá cái tinh hoa trong sách vở Thánh Hiền.

Ngày nay, nhân loại đã bước qua khỏi thời kỳ phong kiến nông nghiệp, nhà Nho trở thành lỗi thời. Tuy vậy, nhắc lại vài điểm chính yếu của tổ chức học hành thi cử chữ Nho thời trước cũng là một việc hay, bởi lẽ trong vô số những điều mà người hôm nay trích dẫn ra để phê phán người xưa vẫn có rất nhiều điều có thể bổ khuyết cho việc đào luyện tư cách con người và hoàn thiện cấu trúc xã hội hôm nay và ngày mai.

Chú giải:

11. Tứ Thư là Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử.

Ngũ Kinh là Dịch, Lễ, Thi, Thư, Xuân Thu.

Bắc sử là sử Trung Quốc, Nam sử là sử nước ta.

Bách gia chư tử là gọi chung các học giả, triết gia liên hệ đến đời sống chính trị và văn hóa Trung Quốc ngày trước: Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử, Lý Tư, Dương Tử, Lão Tử, Trang Tử.

Đường Tống bát đại gia là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên đời Đường; Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng đời Tống.

12. Đề tuyển, còn gọi là Đề điệu, thời Lê và Nguyễn sơ, là Chánh khảo. Từ năm 1828, đặt thêm các chức Chánh Phó Chủ khảo, Đề tuyển chỉ phụ trách việc lập danh sách thí sinh, ghi số hiệu, rọc phách, phát quyển, thu quyển, chứ không dự vào việc chấm thi.

13. Trường quy là những luật lệ thi cử mà thí sinh phạm phải thì bị đánh hỏng và nhiều khi còn bị tù tội: kỵ húy, khiếm tị, khiếm trang, khiếm đài, khiếm cung, bất túc, bất cập, duệ bạch, bạch tự, di tự, đồ bất thành tự, tì ố, dấu nhật trung, dấu giáp phùng, thiệp tích, cộng quyển nội, ngoại hàm.

14. Căn cứ vào thể lệ cải cách của khoa thi năm 1909, việc thi cử bắt đầu thuộc thẩm quyền bộ Học. Trước năm 1907, Duy Tân nguyên niên, là năm lập thêm bộ Học, việc thi cử do Tân Hưng Ty bộ Lễ đảm trách.

15. Quan chế nhà Nguyễn phân biệt rõ ràng chức, tước, phẩm, hàm. Thí dụ:

Chức: Huấn đạo, Tri huyện, Lãnh binh, Án sát, Bố chính, Tiễu phủ sứ, Tổng đốc, Đô thống, Ngự sử, Tế tửu, Thượng thư v.v.

Tước: Vương, Công (Quốc công, Quận công, Huyện công), Hầu, Bá, Tử, Nam.

Phẩm: Từ Cửu phẩm đến Chánh Nhất phẩm, chia ra Văn giai và Võ giai.

Hàm: Đãi chiếu, Cung Phụng, Biên tu, Tu soạn, Thị độc, Thị giảng, Hồng lô tự khanh, Thái thường tự khanh, Hiệp tá, Đông các, Võ hiển, Văn minh, Cần chánh v.v.

16. Giáp đệ là Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp (còn gọi là Hoàng giáp), và Đệ tam giáp. Triều Nguyễn không lấy Đệ nhất giáp đệ nhất danh, chỉ có Đệ nhất giáp đệ nhị danh và Đệ nhất giáp đệ tam danh.

17. Nguyễn Gia Kiểng. Tổ Quốc Ăn Năn, Tác giả Xuất bản, Paris 2001.

Nguyễn Gia Kiểng đã nặng lời khi đề cập đến thân phận kẻ sĩ vì lẫn lộn 士 (sĩ trong kẻ sĩ) với 仕 (sĩ là người làm quan) được viết có thêm bộ nhân đứng.