Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Lịch sử > Di sản > Mỹ Sơn: Lịch sử, kiến trúc và trang trí

Mỹ Sơn: Lịch sử, kiến trúc và trang trí

Thứ Ba 14, Tháng Tám 2007, bởi CTV

Cách Hội An 42 Km và Trà Kiệu khoảng 30 Km về phía tây có một thung lũng nhỏ đường kính chừng 2 Km, đó là thánh địa Mỹ Sơn.

Nó nằm gọn giữa những ngọn núi bao quanh và chỉ có một lối vào duy nhất là theo con đường độc đạo nằm giữa hai quả đồi, hai quả đồi này tạo thành hai cái trạm gác, một cái chốt phòng ngự cao khoảng 30 mét và một con suối nằm chắn ngang trước mặt con đường vào thung lũng như một chiến hào sâu và rộng gây thêm một chướng ngại cho những ai muốn vào khu vực thánh địa, một thứ chiến lũy của thiên nhiên sẵn có, con suối chảy quanh co theo sườn núi phía bắc, rồi đâm thẳng vào phía trung tâm, sau đó nó chạy vòng quanh tạo thành một thủy lộ lưu thông cho toàn bộ khu vực này trong mùa mưa và chỉ cần một cái đập nhỏ chắn ngang dòng suối thì sẽ là lý tưởng, hình như con suối này ăn thông với một nhánh của sông Vu Giang, Thu Bồn... Sau khi băng qua suối đi dọc theo một con đường ngoằn nghèo khoảng 3 Km thì đến khu vực với các công trình kiến trúc quan trọng nhất của nền văn hóa Champa.

Lịch sử

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) có ghi lại một số sự kiện liên quan đến sự hình thành của vương quốc Champa, kinh đô Trà Kiệu và thánh địa Mỹ Sơn:

ĐVSKTT trang 158: "năm 137 người man ở huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đánh phá quận huyện giết trưởng lại. Năm 138 Thị Ngự sử Giả Xương cùng quân các châu huyện hợp lại đánh Khu Liên không được, bị Khu Liên vây đánh hơn một năm". Khu Liên được xem như vị vua đầu tiên của Lâm Ấp hay còn gọi là Vương quốc Champa sau này.

ĐVSKTT trang 173: "Năm 399 vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân rồi vào cướp Giao Châu". Kinh đô của Lâm Ấp bấy giờ là Trà Kiệu.

..."Năm 420 Tuệ Độ đánh Lâm Ấp phá được, chém giết đến quá nửa, Lâm Ấp xin hàng". Lần đầu tiên Kinh đô Trà Kiệu và Thánh địa Mỹ sơn bị xâm chiếm.

"Năm 432 Vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống xin cai trị Giao Châu...

Năm 436 Hòa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào Tượng Phố (Trà Kiệu)". Đây là lần thứ hai Mỹ Sơn bị chiếm.

ĐVSK trang 222 chép : "Năm 982 Vua Lê Đại Hành thân đi đánh Chiêm Thành, chém chết vua Chiêm tại trận..., bắt sống lính chúng nhiều vô kể, cùng các kỷ nữ trong cung hàng trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quí đem về, thu được vàng bạc châu báu, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư". Đó là lần thứ ba khu Thánh địa này bị tàn phá. Về sau các Vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông còn đánh chiếm Chiêm Thành nhiều lần nữa.

Những nghiên cứu của các nhà khảo cổ cho biết Thánh địa này xây dựng từ thế kỷ thứ IV và liên tục được trùng tu, phát triển và xây mới thêm những đền tháp cùng các pho tượng điêu khắc bằng đá khác cho đến thế kỷ thứ XIII mới chấm dứt.

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) quyển 2 trang 332 thì vùng đất Quảng Nam – Trà Kiệu - Mỹ Sơn xưa là đất Việt Thường thị ; đời Tần thuộc Tượng quận; đời Hán là bờ cõi quận Nhật Nam; đời Đường thuộc Lâm Ấp; đời Tống thuộc Chiêm Thành là đất Châu Lý và Chiêm Động; nước ta đời Trần gọi là Châu Hóa.

Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục trang 1104 ghi: "Tháng 6 năm Hồng Đức thứ nhất Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, mở rộng đất đai đến núi Đá Bia, đặt Thừa Tuyên và tên Quảng Nam có từ ngày đó".

Trong ĐNNTC về phần cổ tích có ghi Thành cổ Hoàn Vương (Trà Kiệu) ở huyện Diên Phước tục gọi là Vệ Thành, tương truyền ngày xưa Hoàn Vương đóng đô ở đấy. Ba mặt thành, trước, tả, hữu bị xói lở chỉ còn góc phía tây bắc hiện nay vẫn còn; về tháp cổ Chiêm Thành ở huyện Diên Phước có hai cây tháp nay dều đổ nát, một tháp đổ xuống thành gò ước hơn một mẫu... và còn mô tả một số tháp có trong tỉnh nhưng không có chỗ nào trong sách mô tả phong cảnh và tháp miếu như ở Mỹ Sơn mà chỉ nói là ở Khương Mỹ có ba tòa liền nhau cao 80 trượng, phía trên có lỗ thông thiên, phía trong có tượng đá, nay đã đổ nát, tương truyền đây là chỗ táng vợ vua Chiêm Thành.

Kiến trúc

Hiện tại Thánh địa Mỹ Sơn là quần thể kiến trúc phong phú và đa dạng nhất của nghệ thuật Champa về đền tháp, văn bia, tượng, điêu khác trên đá và trên gạch. Lịch sử phát triển của Thánh địa Mỹ Sơn có lẽ là song song với sự xây dựng, hoàn thiện kinh đô Trà Kiệu trong một tổng thể không thể thiếu được của nền văn hóa Á đông và văn minh Champa là: Kinh đô - Lăng Miếu, Thánh địa, Đền đài để thờ cúng các tiên vương, chư thần...

Một bi ký cho biết chính vua Bhadravarman đệ nhất là người khởi công xây dựng thánh địa này với những dòng như sau: "Ngài đã cúng dâng cho thần Bhadresvara một khu vực vĩnh viễn, phía đông là núi Sulaha, phía nam là núi Mahaparvata, phía tây là núi Kusala, phía bắc là núi... làm ranh giới. Ngài cũng cúng dâng cho thần tất cả các ruộng đất và cư dân trong phạm vi đó, hoa lợi cũng được dâng cúng cho thần... Nếu có kẻ nào dùng vũ lực để chiếm đoạt hay phá hủy ruộng đất này thì nhân dân không phải tội, mà tội sẽ dành cho kẻ đó..."

Có bao nhiêu lối đi vào bên trong khu vực thánh địa hay vào một quần thể tháp Champa, có hay không một lối đi vào trực diện với cửa chính của tháp? Đến nay đó vẫn còn là một bí ẩn, hầu hết các tháp đều quay mặt về phía đông, hướng của mặt trời và của thần linh, khi quan sát người ta thấy chỉ có một lối đi vào bên hông hay mặt sau của tháp mà thôi.

Từ một vị trí cao nhất trong thung lũng để quan sát hết quần thể kiến trúc của Thánh địa Mỹ Sơn, ta có thể phân chia các di tích, các tháp. Theo kiểu phong thủy Châu Á người ta thường chọn hướng Đông Tây làm trục chính, Nam Bắc làm trục phụ, gò cao, thế núi và mạch sông làm chuẩn trong việc thiết kế xây dựng kinh đô, lăng miếu, đền đài, nhà cửa...

Bản đồ Mỹ Sơn

Trong thung lũng có hai ngọn đồi, ngọn phía đông cao hơn ngọn phía tây. Hai ngọn đồi này đối diện nhau ở điểm trung tâm ngã tư của một con suối, các nhánh của con suối này bao bọc 4 khu vực trong Thánh địa.
- Khu A : gồm các tháp và di tích nằm trên ngọn đồi phía đông.
- Khu B : gồm các tháp và di tích nằm trên ngọn đồi phía tây.
- Khu C : gồm các tháp và di tích nằm ở phía nam, có hai khu C1 và C2.
- Khu D : gồm các tháp và di tích nằm ở phía bắc.

Cách phân chia này phù hợp với địa thế phong thủy, tránh được tình trạng xé lẻ từng mảnh vụn của tổng thể kiến trúc của mỗi tháp mà trước đây nhà khảo cổ học người Pháp ông H.Parmentier đã công bố năm 1904.

- Khu A có 5 kiến trúc : 1 tháp chính và 4 tháp phụ.
- Khu B có 4 kiến trúc : 1 tháp chính và 3 tháp phụ.
- Khu C là khu vực có nhiều tháp và các tác phẩm điêu khắc nhất, chia làm C1 và C2. C1 nằm phía đông được bao quanh bằng một con suối gồm có 16 kiến trúc (4 kiến trúc nằm rải rác bên ngoài và 12 bên trong): 2 tháp chính với 8 tháp phụ, 1 tháp chính và 2 tháp phụ đi kèm cùng một số tượng điêu khắc bằng đá. C2 nằm phía tây gồm có 26 kiến trúc (6 ngoài và 20 trong): 3 tháp chính và 12 tháp phụ cùng với một số tượng, phù điêu cùng các tác phẩm điêu khắc, bi kí bằng đá mang tính tôn giáo.
- Khu D có 12 kiến trúc (1 ngoài và 11 trong): 2 tháp chính, và 4 tháp phụ, trong đó có 1 tháp chính không có tháp phụ đi kèm, cùng một số tượng điêu khắc bằng đá. Tất cả là 46 kiến trúc có thể đếm được trong khoảng ước chừng 70 kiến trúc của Thánh địa này.

Linga Mỹ Sơn

Linga Mỹ Sơn

Những chiếc mặt nạ hình Linga

Khu A gồm 5 kiến trúc nằm trên ngọn đồi phía đông là ngọn đồi cao nhất trong thung lủng, có một tháp chính và 4 kiến trúc phụ trong đó có một tháp nhỏ để dựng bi kí nằm ở giữa, một thủy tháp, một hỏa tháp và nhà bày mâm dùng để sửa soạn đồ tế. Tháp chính có hai cửa theo hướng đông tây, ở mỗi cửa có 8 bậc cấp để đi lên, ở mỗi cửa đều có vòm cuốn. Các vật trang trí quanh tháp chất liệu sử dụng toàn là gạch và đất nung không bằng sa thạch như ở tháp khác.

Đặc biệt nhất là cách trang trí ở chân tháp, mỗi góc có một con sư tử đực vóc dáng cực kỳ dũng mãnh bằng đá có kích thước khá lớn trong tư thế chống đỡ các góc tháp, quanh chân tháp được trang trí bằng những hàng mặt nạ gồm các ô vuông bằng đất nung cùng một kích thuớc và cùng một chủ đề là mô tả dương vật bằng hình ảnh thật mà không cách điệu như bộ Linga–Yoni mà ta thường thấy, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc rất tinh tế, sắc sảo, đầy ấn tượng với dương vật ngắn, hai tinh hoàn to và tròn, qui đầu tròn đỉnh nhọn, mạnh mẽ đầy sinh khí.Mặt nạ nầy cũng có thể nhìn theo một cách khác đó là mặt của một quái vật mắt lồi, mũi to, môi trên xếch lên, nhe răng dáng dấp của sư tử, mỗi ô vuông là mỗi tác phẩm điêu khắc rất sinh động và hấp dẫn, không có cái nào giống cái nào.

Nếu chỉ tách riêng phần sống mũi và hai cánh mũi của quái vật để so sánh với một Linga ở khu D thì khuynh hướng thiên về hình ảnh của Linga không cách điệu dể dàng đựơc chấp nhận hơn, thế nhưng giải thích đó là mặt nạ của mặt sư tử theo như vùng đất mang tên Shimhapura thì cũng là một điều thú vị, bởi Shimhapura là Trà Kiệu hay còn gọi là thành phố sư tử.

Khu A có thể được xem như là khu vực linh thiêng nhất, nó mô tả toàn bộ triết lý của vương quốc và dân tộc Champa hay chỉ riêng vùng đất Shimhapura. Các biểu tượng sư tử hay về bộ phận sinh dục nam và nữ được các nhà điêu khắc và các nghệ sĩ cổ đại Champa sáng tác theo hình ảnh thật chứ không cách điệu như các tác phẩm ở nơi khác, hình ảnh bộ phận sinh dục được thờ phượng rất trân trọng ở nơi đây.

Ngoài ra Khu A là một trong toàn bộ một tổng thể kiến trúc mang tính chất triết lý và thờ phượng đặc sắc nhất của nghệ thuật sử dụng gạch và đất nung để trang trí trên tháp của dân tộc Champa trong thời kỳ vàng son của vương quốc này. Một số trong các tác phẩm bằng đất nung vẫn còn vẻ đẹp sắc sảo, với các nét đặc thù của nó, mặc dù đã trải qua phơi mình giữa nắng mưa suốt gần 1500 năm mà vẫn không hề hấn gì, phần còn lại của toàn cảnh thánh địa Mỹ Sơn điêu tàn, thê lương như nhận xét cách đây hơn một thế kỷ rưỡi của sách Đại Nam Nhất Thống Chí.

Hoa văn trang trí

Hoa văn trang trí tại thánh địa Mỹ Sơn

Vũ điệu của nữ thần SIVA

Khu B gồm các kiến trúc nằm trên ngọn đồi phía tây, có một tháp chính và 3 kiến trúc phụ.

Theo tác giả Trần Kỳ Phương (TKP) thì tất cả nhóm tháp này đều có cùng một niên đại. Tháp chính xoay mặt về hướng đông, một kíến trúc phụ đối diện với tháp chính, có thể đó là chỗ bày mâm, nơi dùng để sửa soạn vật dụng tế lễ, chếch về phía nam một kiến trúc khác có thể đó là Hỏa tháp - Thủy tháp và một miếu nhỏ dựng bi kí phía đông nam.

Hiện nay tháp chính đã bị phá hủy, đổ nát tạo nên một cái gò cao bằng gạch, phía dưới chôn vùi những gì bí ẩn thì chẳng có ai biết, ngoài đống đổ nát này chỉ còn một mảng tường cao về phía bắc, trên tường còn một cửa giả và 5 trụ áp tường. Cửa giả có vòm cuốn với hình ba lưỡi mác chồng lên nhau, trước nhỏ sau lớn hơn. Trụ áp vào chân tường cũng có hình lưỡi mác nhỏ. Tất cả những phần trang trí trơn không chạm hoa văn.

Vật trang trí là những đầu thủy quái Makara bằng sa thạch trông rất kỳ cục và hung dữ. Trên cửa chính là một tấm lá nhĩ chạm thần Siva múa, thần có 8 tay, hai tay chắp lên đầu, hai lòng bàn tay úp lại với nhau, vẫn còn trông rõ các ngón tay, một kiểu thức đặc biệt của nghệ thuật múa Champa và 4 cánh tay bên trái của nữ thần Siva mô tả chi tiết không rõ rệt nhưng các bàn tay bên phải thì sinh động hơn nhiều, các ngón tay nắm lại như đang cầm một vật phụ thuộc, một đai dây đeo trước bụng, dưới rốn một phần đai dây thòng xuống che kín bộ phận sinh dục, đầu đội mũ Kirita-Mukuta, dưới chân hai con Makara có vòi cuốn (TKP).

Khu B tương đối là nhỏ nhất trong quần thể kiến trúc ở đây, tháp chính không có các kiến trúc phụ đầy đủ đi theo kèm như Hỏa tháp, Thủy tháp... như các tháp khác của Champa, tuy nhiên ở đây có nét đặc biệt là tượng thần Siva trở thành chủ đề thở phựơng chính của khu này.

Nữ thần Siva thể hiện điệu múa trên một toà sen có nhiều cánh trong trạng thái trầm tư thanh thoát như đang hội nhập vào cõi siêu nhiên vô hình. Khuôn mặt với mắt có hai hàng lông mày mỏng, mắt nhắm nghiền, khuôn măt trong trạng thái, siêu thoát, sống mũi cao và cánh mũi nở lớn, môi dày và hơi mím lại, tai đeo búp hoa, dái tai trệ xuống, nữ thần Siva trong thế múa với các động tác rất đặc trưng là hai hàng tay dang ngang rồi cong vút lên đầu, phần thân được kéo xuống do tư thế dang hai đầu gối ra và gót bàn chân chụm lại, bàn chân chãi ra và các ngón chân hất ngược lên. Về phương diện múa cổ điển hay biến tâu hiện đại thì đây là một động tác trong 5 động tác chân căn bản của nghê thuật múa đòi hỏi nhiều kỷ năng và thời gian luyện tập lâu dài mới có khả năng thực hiện được động tác khó này, bởi nghệ sĩ múa chỉ tỳ trọng lượng của toàn bộ cơ thể chỉ trên một điểm tiếp xúc nhỏ ở một phần ở lòng bàn chân phài làm điểm tựa và toàn bộ chịu lực đặt vào gan bàn chân phần ngón cái của bàn chân trái.

Dưới chân nữ thần Siva có hai người trong tư thế quỳ, hai tay chấp lại đang dâng cho nữ thần một phẩm vật, hai nhân vật này không đối xứng và có động tác mô tả sự hiến dâng lễ vật cho nữ thần rất khác nhau, một người ở phía trước nữ thần và một người sau, những chi tiết hoa văn trang trí phần này là một biến tấu trong nghệ thuật điêu khắc rất đa dạng tinh vi.

Phần đế là hai con Makara nằm phủ phục hai bên với vòi cuốn cong, con bên trái của nữ thần vòi được chạm trổ che khuất một phần ống chân, mắt mở to, mí mắt hai vồng ngước trông lên đầy sùng bái và ngưỡng mộ, con Makara bên phải ở trong tư thế khác, nằm sau nữ thần, phần đầu của vòi kẹp một xâu chuỗi có hơn 25 hạt hướng dâng lên nữ thần.

Tấm lá nhĩ hoa văn trên đài tượng có đôi chỗ sứt mẻ nhưng vẫn còn thể hiện được cái triết lý của nền văn hóa Champa qua tài năng của các nghệ sĩ điêu khắc tạc tượng của họ.

Khu B bây giờ hoang tàn đổ nát bởi những cuộc chiến tranh tàn phá hủy diệt của Tuệ Độ thứ sử Giao Châu thời Tấn năm 420, của Thứ sử Hòa Chi đời Tống năm 436 hay các cuộc chinh phạt của Lê Đại Hành Hoàng đế năm 942, của Lý Thánh Tông năm 1044, của vua Lê Thánh Tông (1472 )..., có chăng chỉ còn một gò cao gạch vụn màu đỏ nồng nàn của đất cát bazan núi rừng cao nguyên và màu rêu xanh của năm tháng trầm luân, u uất nơi mà ngàn măm trước đây các nghệ sĩ Champa đem hết lòng sùng kính và tài hoa của mình qua nét chạm trổ, điêu khắc và xây dựng nên một thánh địa để bày tỏ sự ngưỡng mộ của họ đối với các vị tiền nhân tổ tiên cũng như các vị thần linh che chở dân tộc và vương quốc Champa.

Thánh địa Mỹ Sơn giờ đây chỉ còn sót lại lác đác vài đền tháp rệu rã, những bức tượng không đầu rải rác đâu đó trong bụi rậm, dưới lòng suối hay nơi gò mối... Hoang vu như những cơn gió nam oi nồng thổi qua trên đỉnh núi Mahaparvata nhưng cái hồn của Champa vẫn còn phảng phất đâu đó trên cỏ gai và cây dại, cái tinh anh của các nghệ nhân Champa cổ đại vẫn còn thấp thoáng trong điệu múa của nữ thần Siva trên khu cổ tháp ngậm ngùi.

Hồ Đắc Duy


Xem online : MỸ SƠN: THÁP LỚN VÀ BỆ THỜ YONI