LƯỢC SỬ BÁO CHÍ VIỆT NAM TRƯỚC 1945

Trước năm 1862, trên đất nước chúng ta không có báo, chỉ có một số câu hát, câu vè nói tới một vài sự kiện rất đơn lẻ, ví dụ như vụ Tự Đức khi nối nghiệp Thiệu Trị đã tiếm ngôi của anh là Hồng Bảo, người được người đương thời thương tiếc và nhắc tới với hai câu:

“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
nhớ người quân tử khăn điều vắt vai”.

hoặc vụ hai đại thần Tường và Thuyết lộng hành, lập và phế một lúc mấy vua sau khi Tự Đức băng hà với mấy câu hát như:

“Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết,
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường”.

Trong hai câu thơ này có cả tên Tường lẫn Thuyết và có nhắc tới việc chỉ có trong có bốn tháng mà có tới ba vị vua bị giết. Có người gọi các câu thơ câu vè này là “Báo Miệng” nhưng thực chất thì chúng không thể được coi là một dạng báo vì chúng chỉ đưa ra những hành động đơn lẻ và không có vẻ gì là một tờ báo, vào thời đó được gọi là “Nhật trình” nghĩa là hàng ngày đưa ra đủ mọi thông tin trong tất cả mọi lãnh vực của xã hội.

Sau Hòa Ước Nhâm Tuất, được ký vào năm 1862, phía Việt Nam phải mất đứt cho Pháp ba tỉnh Gia định, Biên Hòa và Định Tường, người Pháp bèn lập tức thiết lập và tổ chức hệ thống cai trị ở nhượng địa. Báo chí là một trong những công cụ đầu tiên được người Pháp sử dụng: Chuẩn Đô đốc Bonard chuyển từ Pháp qua một cái máy in, có một ít chữ và vài chú thợ sang theo, thật đúng là phải đợi tới ngày Pháp sang chúng ta mới có báo dù rằng những tờ báo đầu tiên đều bằng Pháp văn và Hán văn.

Tờ báo thứ nhất in ở Saigon là tờ Bulletin Officiel de l’Expédition de Cochinchine (Tập san chính thức của cuộc Viễn chinh ở Nam Kỳ) ra đời năm 1862 bằng tiếng Pháp chứa toàn những thông cáo, nghị định, quyết định vv… đánh số thứ tự 1, 2, 3, 4, v.v. và ngay trong số đầu tiên ta có thể đọc được thông báo số 1 là Phó Đô đốc Charner chuyển giao quyền hành cho Chuẩn Đô đốc Bonard…

Kế đó Bonard cho xuất bản tờ báo thứ nhì, tờ Bulletin des Communes (Cáo trình các Làng Xã), tờ này được viết bằng chữ Hán và dùng để hiểu dụ dân chúng. Chính vào lúc này, chính quyền Pháp muốn cho xuất bản một tờ báo bằng chữ quốc ngữ, nhưng vì chữ quốc ngữ có dấu nên phải cho đúc ở bên Pháp, mãi tới cuối năm 1864 vẫn chưa xong, do đó, trong khi chờ đợi Chuẩn Đô đốc Roze cho xuất bản một tờ báo thứ ba mang tên “Bulletin du Comité agricol et industriel de la Cochinchine” (Kỷ yếu của Ủy Ban Canh nông và Kỹ nghệ ở Nam Kỳ) nhằm mục đích nghiên cứu nông nghiệp và công nghệ ở xứ này. Cụ Trương Vĩnh Ký chính là người Việt Nam đầu tiên làm trợ bút cho tờ báo bằng pháp ngữ này. Rồi tới khi Kerguda sang làm Thống Đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) và có lời mời Trương Vĩnh Ký ra làm quan, nhưng cụ từ chối và xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là Gia Định Báo. Lời yêu cầu của cụ được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất bản được ký ngày 1/4/1865, nhưng không phải ký cho Cụ mà lại ký cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux - một viên thông ngôn làm ở Soái phủ Nam Kỳ. Và phải đến ngày 16/9/1869 mới có Nghị định của Chuẩn Đô đốc Ohier ký giao hẳn tờ Gia Định Báo cho cụ Trương Vĩnh Ký đứng làm chủ biên.

Qua sự việc này, tờ Gia Định Báo đã chính thức được coi là tờ báo thủy tổ của báo chí nước ta.

NHỮNG TRANH CÃI VỀ NGÀY SỐ GIA ĐỊNH BÁO ĐẦU TIÊN ĐƯỢC ẤN HÀNH

Liên quan tới chi tiết này có rất nhiều nguồn tin khác nhau, có tác giả như cụ Đào Trinh Nhất thì cho rằng số đầu tiên được ấn hành năm 1867, một số tác giả và nhà nghiên cứu khác lại cho rằng ngày 1/4/1865 mới là đúng, và gần đây nhất thì có người đưa ra giả thuyết, vẫn là giả thuyết thôi vì chưa có gì xác minh rõ ràng là sự thật nằm ở đâu, là ngày 15/4/1865. Tuy nhiên nếu xét cho kỹ thì giả thuyết 1867 là hoàn toàn không thích đáng, còn ngày 1/4/1865 thì cũng không hợp lý vì có lẽ nào ngày ký giấy phép lại cũng là ngày phát hành tờ báo, chả lẽ in báo trước rồi mới xin phép; do đó, ngày phát hành số 1 của Gia Định Báo hợp lý nhất là ngày 15-4-1865. Nói hợp lý là vì tờ Gia Định Báo chỉ có 4 trang giấy, chứ không dày gì cho lắm, nên thời gian hai tuần lễ đủ để in và phát hành. Ngoài ra còn một dẫn chứng dưới đây có thể coi là phần nào xác định thời điểm 15/4/1865 nói trên là chính xác:

Dẫn chứng này có thể coi là một dẫn chứng bằng một sự việc: đó là, trong khoảng thời gian từ 1968 tới ngày giải phóng (1975), những người bán sách cũ kỳ cựu như các ông Trần Công Liễu, Nguyễn Văn Thực… bà Ký, ông Tư Chà v.v. đều biết rất rõ rằng có một người Pháp tên là Harmand, làm thầy giáo ở một trường tây, đã ra giá thoạt đầu từ 500 đô la để tìm mua số 1 của Gia Định Báo, mà theo lời người đó một thư viện lớn ở Pháp đang thiếu, và chính người Pháp này đã cho biết số 1 Gia Định Báo ông ta đang tìm là ra ngày 15/4/1865. Nhiều năm qua đi mà số báo, chỉ gồm có bốn trang, kỳ quái đó cũng vẫn biệt tăm, giá tiền tăng dần và đến ngày giải phóng thì nó lên tới 5000 Mỹ kim cho 4 trang giấy đó. Đây là một việc mà những người chơi sách nhiều tuổi ở thành phố chúng ta có thể còn nhớ, trong số đó có tôi và ông bạn tôi là chủ nhà sách Alpha, ông Lý Thái Thuận, một tên tuổi không xa lạ gì với giới xuất bản sách báo ở Saigòn cũ.

Gần đây, mới cách đây khoảng 4 tháng có một bài báo đăng trên tờ Thế giới mới cho rằng (tác giả đã viết là xác định rằng) Gia Định Báo là tuần báo và phát hành 2 hay 3 kỳ một tháng. Điều này không chính xác vì đã là tuần báo thì ít nhất cũng phải 4 kỳ một tháng chứ làm gì có tháng nào chỉ có 3 tuần, phải không thưa quý vị? Và điều mà chúng ta có bằng chứng ngay trước mắt ngày hôm nay là một số Gia Định Báo mà tôi xin chuyển đến cho từng vị một nhìn tận mắt để có thể tin được. Đây là số Gia Định Báo đề ngày 22/12 (Décembre) 1896. Sau hàng chữ này có con số 201 mà tôi không dám chắc có phải là số của tờ Gia Định Báo thứ 201 hay không. Hơn nữa ở phía bên trái lại đề ngày 18 tháng Mười Một, thì cũng không biết có phải đây là ngày Âm lịch của ta hay không? Tuy nhiên có một điều chính xác là ở mặt trước có đề rõ: ngày phát nhật trình, mỗi tháng in 4 kỳ cứ ngày thứ ba thì phát. Vậy là 4 kỳ thì đúng là tuần báo rồi, chứ có hai hay ba kỳ thì hơi bị ít đúng.

Bây giờ tôi xin nói qua về nội dung Gia Định Báo. Qua một số tài liệu mà tôi có dịp đọc trong sách báo cũ thì, vào lúc đầu, nội dung Gia Định Báo chia làm hai phần: - Phần Công Vụ dịch và đăng tải các nghị định, thông tư, của chính phủ vừa ban hành – chính phủ đây là chính phủ Pháp mũi lõ chứ không có tý mũi tẹt nào. - Phần Hai là phần Tạp Vụ Linh Tinh đăng tải nhiều tin tức trong xứ. Tờ Gia Định Báo in khổ giấy 23 cm x 30 cm và số trang thay đổi từ 4 đến 12 trang. Tuy nhiên số báo mà chúng ta đang có trong tay thì khổ giấy lại là 28 cm x 38 cm.

Đến khi lọt vào tay Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký thì mới thấy xuất hiện một cách sơ sài những bài vở về cổ tích, thi ca, nghị luận v.v. của Thế Tải Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường, Huỳnh Tịnh Của v.v.

Cho tới số chúng ta đang có trong tay, Gia Định Báo vẫn chia làm 2 phần Công Vụ và Tạp Vụ.

Phần Công Vụ gồm các nghị định, các đạo dụ, các tin giây thép của hãng thông tấn Hanas’, tin tức về cấp bằng, thăng chức, đổi chỗ, cho nghỉ việc, và các loại biên bản mọi loại phiên họp của hội đồng quản hạt.

Phần Tạp Vụ gồm những mục cũa chính phủ: các lời dạy bảo, các lời rao có tính cách hành chánh liên quan tới thuế má, giá gạo, hàng hóa, trích lục các báo cáo về tình hình canh nông, kỹ nghệ, thương mại của các địa phương, hoặc các bài tường thuật về các cuộc vui, các tang lễ vv…

Thời gian không có nhiều, tôi chỉ xin trích một vài tư liệu điển hình như dưới đây:

— GIÁ MUA NHẬT TRÌNH (tức là GĐB)
Ai muốn mua thì nói cho phòng thông ngân dinh quan Thống đốc Nam-kỳ biết tên họ chỗ mình ở. Một năm giá 6$67, sáu tháng 3$33, ba tháng 1$07.

— THĂNG BỔ XỬ TRÍ
Vì lời định quan Thống-đốc Nam-kỳ, ngày mồng một Decembre 1896: Nguyễn-Văn-Vận, đội coi khám Mỹ-tho, phải cách chức.

Xin trích dưới đây vài thí dụ về phần Tạp Vụ:

— NHỊ THẬP TỨ HIẾU DIỄN CA – Vĩnh-Thuận Hồ-Khẩu – Lý-công soạn (1)

10. Hán Khương-thị nhà còn lão mẫu
vợ họ Bàng vẹn đạo chữ tùng.
Mẹ thường muốn uống nước sông,
vợ tằng đi gánh thay chồng chìu cô…

(1) Vĩnh-thuận, Lý - văn - Phức bái soạn

— NHÀ IN BÁN SÁCH MỚI CỦA ÔNG CLAUDE VÀ CÔNG TI
Tại đường Catinat số 99

....

Kính cho thiên hạ hay sách Pháp học tân lương của Thế-tải Trương-minh-Ký làm dạy học cho mau thông mau hiểu tiếng Phansa bây giờ bán một đồng rưỡi bạc một cuốn lớn 312 trương. (Cours gradué de langue Francaise-Annamite…).

Sau tờ GIA ĐỊNH BÁO, là các tờ PHAN YÊN BÁO (1868) của Diệp Văn Cương, NAM KỲ NHỰT TRÌNH (Le Journal de Cochinchine) (1885), MISCELLANÉES ou LECTURES INSTRUCTIVES POUR LES ELÈVES DES ÉCOLES PRIMAIRES, COMMUNALES ET CANTONALES (Thông - loại khóa trình) (1888), NÔNG CỔ MÍN ĐÀM (1900), có nghĩa bằng Pháp văn là “Causeries sur l’agriculture et le commerce” mà chủ bút là Cụ Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, LE MONITEUR DES PROVINCES (Nhật báo Tỉnh) (1905), LỤC TỈNH TÂN VĂN (1907) mà chủ nhiệm là Cụ Nguyễn văn Của, Chủ bút là Cụ Lê Hoằng Mưu, NAM KỲ ĐỊA PHẬN tên tây là “Semaine religieuse” (1909), NAM TRUNG NHẬT BÁO của Nguyễn Tử Thức, CÔNG LUẬN BÁO (1916) một tuần ra 2 kỳ vào thứ ba và thứ sáu, AN HÀ BÁO in ở Cần Thơ năm 1917, tuần báo ra ngày thứ năm, NAM KỲ KINH TẾ BÁO (1920) tên tây là “L’Information économique de Cochinchine”, NHẬT TÂN BÁO (L’Ere nouvelle) (1922) chủ nhiệm là Cao Hải Để, ĐÔNG PHÁP THỜI BÁO (Le Courrier Indochinois (1923), TRUNG LẬP BÁO (Edition annamite de l’Impartial) (1924), PHÁP VIỆT NHỨT GIA (1927), ĐUỐC NHÀ NAM (1928) của Cụ Nguyễn Phan Long, KỲ LÂN BÁO của Bùi Ngọc Thự cũng vào năm 1928, PHỤ NỮ TÂN VĂN (1929) tuần báo ra ngày thứ năm của bà Nguyễn Đức Nhuận, THẦN CHUNG (1929) của Diệp Văn Kỳ, LONG GIANG tên tây là Le Mékong (1930), ĐÀN BÀ MỚI (1934) của Bà Băng Dương tức Thụy An, ĐÔNG THINH tên tây là “La voix de l’Orient” (1935), tuần báo của Diệp Văn Kỳ, ZÂN (1935) của Nguyễn Văn Nhựt, MAI (1935) của Đào Trinh Nhất, NỮ LƯU (1936) của Tô Thị Để, VĂN LANG (1939) của Hồ Văn Nhựt, Hồ Tá Khanh, NAM KỲ TUẦN BÁO (1942) của Hồ văn Trung tức Hồ Biểu Chánh, ĐẠI VIỆT TẠP CHÍ (1942) Hồ Văn Kỳ Trân làm quản lý, BULLETIN DE LA SOCIÉTÉ D’ENSEIGNEMENT MUTUEL DE LA COCHINCHINE (Kỷ Yếu của Hội Khuyến Học Nam Kỳ) (1942), TIẾN (1945) của Mai Văn Bộ. Trên đây là một số trong những tờ báo ra hàng tháng, hàng tuần hoặc là nhật báo ở Miền Nam. Bây giờ chúng ta hãy xem ở Miền Bắc thì ra sao?

Ở Miền Bắc phải tới năm 1892 mới có một tờ báo viết bằng chữ Hán do một người Pháp tên là Henri Schneider, chủ nhà in xuất bản; đó là tờ ĐẠI NAM ĐỒNG VĂN NHẬT BÁO, nội dung của tờ này chỉ là những Nghị Định của Quan Thống Sứ và những bài nhằm mục đích hiểu dụ dân chúng. Tờ báo Việt ngữ đầu tiên ở Miền Bắc ra đời năm 1905 và có tên là ĐẠI VIỆT TÂN BÁO do người Pháp tên là E. Babut làm chủ nhiệm, nội dung chỉ nhằm ca tụng những kẻ có quyền có thế, tuy nhiên cũng có một ít bài khảo cứu văn chương nhưng chất lượng rất kém. Báo này mỗi trang được chia hai theo chiều dọc, một bên chữ Hán và bên kia chữ Quốc ngữ. Năm 1907, tờ ĐẠI NAM ĐỒNG VĂN NHẬT BÁO CÓ THÊM PHẦN TIẾNG QUỐC NGỮ VÀ THÊM TÊN BẰNG QUỐC NGỮ LÀ ĐẠI NAM ĐĂNG CỔ TÙNG BÁO. Lời phi lộ cho sự thay đổi và thêm thắt này cho biết: “Kể từ số 793 ra ngày 28-3-1907 tờ báo được chia làm hai phần: Phần Hán văn do Cụ Đào Nguyên Phổ phụ trách, còn phần Quốc Ngữ do Cụ nguyễn Văn Vĩnh biên tập”, để rồi từ một tờ báo chỉ nói về bọn quan lại, tiến lên thành báo nghị luận ra hàng tuần. Số báo đổi mới đầu tiên này mặt ngoài có vẽ hai con rồng (Lưỡng long chầu nguyệt) in toàn bằng chữ Hán và đặt một cái khung ở giữa trong có hai hàng chữ, mỗi hàng ba chữ, để viết sáu chữ ĐẠI NAM ĐỒNG VĂN NHẬT BÁO bằng Hán tự. Mặt trong in toàn bằng chữ Quốc ngữ và đề tựa đề là: ĐẠI NAM ĐĂNG CỔ TÙNG BÁO. Tờ báo đổi mới này đăng những bài có tính cách xã hội, kèm theo một chút thời sự trong nước, cũng như ở nước ngoài, cộng với một số bài xã thuyết dưới ký tên N.V.V., Tân Nam Tử, Đào Thị Loan vv… Tât cả đều là bút hiệu của Cụ Nguyễn Văn Vĩnh. Đại khái cũng có ý truyền bá tư tưởng Âu Tây nhưng còn ở trong một phạm vi rất hạn hẹp.

Do phạm vi hạn hẹp của cuộc nói chuyện, sau đây tôi xin chỉ nhắc tới những tờ báo đáng nhắc ở Miền Bắc, từ thời điểm đó tới năm 1945. Đó là các tờ: ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ (1913) (Edition spéciale du Lục-Tỉnh-Tân-Văn pour le Tonkin et l’Annam) in tại Hanoi, phát hành mỗi tuần vào ngày thứ năm mà chủ nhân là F.H. Schneider và người này đã mời Cụ Nguyễn Văn Vĩnh từ Nam Kỳ trở lại Miền Bắc để làm chủ bút, TRUNG BẮC TÂN VĂN (1913) cũng Cụ Vĩnh làm chủ nhiệm mỗi tuần ra ba số, tên Tây của tờ này là “Gazette de l’Annam”, NAM PHONG (1917-1934) (Văn học, khoa học tạp chí) in ở Hà Nội mỗi tháng một kỳ, nhưng từ số 194 (15-4-1934) mỗi tháng hai kỳ. Chủ bút kiêm quản lý: Cụ Phạm Quỳnh; đồng chủ bút: Cụ Dương Bá Trạc, đình bản số 210 ngày 16-12-1934. Tuy nhiên coi như tổng số là 211 số vì số Xuân năm 1918 (được coi là thủy tổ báo Xuân của ta) KHÔNG CÓ ĐÁNH SỐ. Ngoài ra với bộ báo coi như VĨ ĐẠI nhất của Việt Nam này, nhiều người quan niệm là chỉ cần có tới số 192 là đã ĐỦ BỘ, vì sau số 192 tờ báo được giao cho Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng vì Cụ QUỲNH vào Kinh làm quan; nhiều người coi rằng từ số 193 cho tới số chót là những số không còn tầm quan trọng của Nam Phong như khi dưới sự lèo lái của Cụ QUỲNH, TẬP KỶ YẾU CỦA HỘI TRÍ TRI (1922) (Bulletin de la Société d’Enseignement Mutuel du Tonkin) phát hành mỗi tam cá nguyệt, VỆ NÔNG BÁO (1923) (Revue agricole en Quốc Ngữ), TRUNG HÒA NHẬT BÁO (1923), ĐÔNG PHÁP (1925) (Edition Annamite de France Indochine), AN-NAM TẠP CHÍ (1926) của Cụ Tản Đà, HÀ THÀNH NGỌ BÁO (1927), TỨ DÂN TẠP CHÍ (1930) tên Tây là “Revue pour tous”, PHỤ NỮ THỜI ĐÀM (1933), TÂN THANH TẠP CHÍ (1931) chủ bút là Cụ Nguyễn Trọng Thuật, VĂN HỌC TẠP CHÍ (1932) Chủ nhiệm Dương Tự Quán, PHONG HÓA TUẦN BÁO (1932-1936) ra được tổng cộng 190 số thì bị cấm, Chủ nhiệm là Nguyễn Xuân Mai, Quản lý là Phạm Hữu Ninh, nhưng linh hồn của tờ báo này là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và Tự Lực Văn Đoàn, đây là một trong những tờ tuần báo ấn tượng nhất, hay nhất, tuyệt vời nhất, quy tụ những cây bút, những nhà thơ số một của thời đó cũng như các họa sĩ danh tiếng nhất như Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí vv… Tên Tây của báo này là (Revue hebdomadaire des Moeurs) và chủ trương của nó là “Cười cợt để sửa đổi phong hóa”, NHẬT TÂN (1933) của Đỗ Văn tuần báo ra ngày thứ tư, TIỂU THUYẾT TUẦN SAN (1933) của Vũ Công Định, PHỤ NỮ THỜI ĐÀM (1933) mà chủ nhiệm là bà Nguyễn Văn Đa, TIỂU THUYẾT THỨ BẢY (1934), ĐÔNG TÂY BÁO (1935) do Dương Tự Quán làm chủ nhiệm, LOA (1935) do Bùi Xuân Học làm chủ nhiệm, NGÀY NAY (1935) mỗi tháng ra ba kỳ do Nguyễn Tường Cẩm làm chủ nhiệm, sau là Trần Khánh Dư và quản lý là Nguyễn Tường Lân đây là tờ báo cũng của Tự Lực Văn Đoàn làm và là một trong mấy tờ báo tuyệt vời nhất mà làng báo của chúng ta đã có kể từ trước tới nay, với những bài vở thuộc loại hay nhất, những bài xã luận cổ vũ sự đổi mới hay nhất, với những minh họa tuyệt vời nhất, trong đó có những minh họa về Lý Toét và Xã Xệ, về Bang Bạnh, và cuối cùng là với những phụ bản do các họa sĩ danh tiếng nhất Việt Nam như Trần Bình Lộc, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Huyến, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Cát Tường (Lemur) vv… HÀ NỘI BÁO (1936) do Lê Cường làm chủ nhiệm, ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ (1937) do Nguyễn Giang làm chủ nhiệm, TIỂU THUYẾT THỨ NĂM (1937), TIỂU THUYẾT THỨ BA (1937) do Đoàn Như Khuê làm chủ nhiệm, ĐÔNG TÂY TIỂU THUYẾT BÁO (1937) tuần báo do Nguyễn Xuân Thái làm quản lý, LY TAO TUẦN BÁO (1937) do Đỗ Văn Tình làm chủ nhiệm, TIỂU THUYẾT TUẦN SAN (1937) do Lê Ngọc Thiều làm quản lý, VỊT ĐỰC (1938), tuần báo trào phúng ra ngày thứ tư hàng tuần do Nguyễn Đức Long quản lý, TIỂU THUYẾT NHẬT BÁO (1938) do Đoàn Như Khuê làm chủ nhiệm, Đỗ Xuân Mai làm quản lý, ra được tổng cộng 363 số, ĐỌC (1938) do Nguyễn Văn La làm chủ nhiệm, ra được 94 số tức là 94 tuần lễ, CHUYỆN ĐỜI (1938) tuần báo ra ngày thứ bảy do Lê Văn Hoàng sáng lập và Nguyễn Văn Sự quản lý, TAO ĐÀN (1939) bán nguyệt san do Vũ Đình Long làm chủ nhiệm, Lan Khai làm quản lý, sau Nguyễn Triệu Luật thay thế, ra được 13 số và 3 số đặc biệt về Tản Đà, Vũ Trọng Phụng và số về Ba Lan, TRUNG BẮC CHỦ NHẬT (1940) trước do Dương Phượng Dực làm quản lý sau là Nguyễn Doãn Vượng làm, TRADUCTEUR (LE) (1940) Tạp chí chuyên về dịch thuật do Trương Anh Tự làm chủ nhiệm và lo phần Pháp và Việt ngữ, THANH NGHỊ (1941) của Doãn kế Thiện và chủ nhiệm là Vũ Đình Hòe, đây cũng là một trong những báo nổi tiếng nhất trong thời tiền chiến, tuy nhiên báo này nặng về phần pháp lý và lịch sử, và có rất ít minh họa, TRUYỀN BÁ (1941) một tập báo dành cho tuổi trẻ ra ngày 10 và ngày 25 mỗi tháng và mỗi số là một chuyện ngắn trên dưới 32 trang dành cho các bạn trẻ của các nhà văn nổi tiếng mà chủ nhiệm là ông Vũ Đình Long, chủ nhà xuất bản Tân Dân, NHI ĐỒNG HỌA BẢN (1941) tạp chí dành cho thiếu nhi mà chủ nhiệm là bà Phạm Ngọc Khuê và quản lý là Nguyễn Văn Hữu, THANH NGHỊ (phần trẻ em) (1941) mỗi tháng ra 3 kỳ vào các ngày 10, 20 và 30 mà chủ nhân là Doãn Kế Thiện và quản lý là Vũ Đình Hòe, PHÁP-VIỆT (1941) tuần báo văn chương phụ nữ thanh niên chính trị mà chủ nhiệm là một người Pháp tên là Clément Edmond Koch và quản lý là Trần Nguyên Bí, TRI TÂN (1941) Tạp chí văn hóa mà chủ nhiệm là Nguyễn Tường Phượng và quản lý là Dương Tự Quán, đây là một trong những tờ báo hàng đầu trong số khoảng 10 tờ nổi tiếng là đứng đắn nhất với những cây bút như Cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố chẳng hạn, và giờ đây, sau khi đã sơ lược lịch sử báo chí ở Miền Bắc, ta hãy quay trở vào Miền Trung để tiếp tục tìm hiểu.

Miền Trung hay đất Thần Kinh đã chỉ thực sự góp mặt với báo chí nước nhà từ năm 1921 với tờ Tiếng Dân của Cụ Huỳnh Thúc Kháng, tuy nhiên từ năm 1914 đã có một tờ báo coi như tờ báo đi dọn đường ở Miền Trung là tờ báo “LE RIGOLO” (Kẻ ngộ nghĩnh) do một nhóm thanh niên tân học gôm có: Võ Chuẩn, Lê Thanh Cảnh, Phan Văn Tài, Lê Văn Thiết vv… chủ trương, và trong năm 1914, hai học giả Pháp là Linh mục Léopold Cadière và Edmond Gras, cùng với một nhóm nhà trí thức Việt Nam đã cùng nhau lập ra Hội Đô Thành Hiếu Cổ (l’Association des Amis du Vieux Huế) và cho xuất bản một nguyệt san nhan đề là NGUYỆT SAN ĐÔ THÀNH HIẾU CỒ (Bulletin des Amis du Vieux Huế) chuyên khảo cứu về lịch sử, chính trị, nghệ thuật tôn giáo và kinh tế xã hội, đây cũng là một bộ báo nằm ở hàng đầu trong các báo chí của Việt Nam, ĐẶC BIỆT LÀ BỘ BÁO NÀY LÀ BỘ BÁO DUY NHẤT CHỈ HOÀN TOÀN NGHIÊN CỨU VỀ VIỆT NAM và những bài nghiên cứu đều do những cây bút lỗi lạc, uyên thâm nhất. Mười ba năm sau, vào năm 1927 báo TIẾNG DÂN ra đời và kế sau đó là các báo THẦN KINH TẠP CHÍ (1927) của Lê Thanh Cảnh, có phụ trương tiếng Pháp, TRÀNG AN BÁO (1932) của Cụ Bùi Huy Tín do Cụ Phan Khôi làm Chủ Bút, KIM LAI TẠP CHÍ (1932) của Cụ Đào-Duy-Anh, đặc biệt là tờ báo này có mục đích chính là Phụ Bản I khuếch trương việc bán Dầu Khuynh Diệp của hãng Viễn Đề, PHỤ NỮ TÂN TIẾN (1933) do Cụ Hồ Phú Viên sáng lập với sự cộng tác của người con gái là bà Hồ Thị Thục cùng với chồng là Nguyễn Tấn, TIÊN LONG (1933) do Bà Lê Thành Tường chủ trương, trong khi chồng bà, ông Lê Thành Tường làm bí thư cho Khâm sứ Châtel, NHÀNH LÚA (1935) do Nguyễn Khoa Văn tức Hải Triều chủ trương, SAO MAI (1935) do Trần Bá Vinh chủ trương với sự cộng tác của Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính (Hoài Thanh), ÁNH SÁNG (1936) của dân biểu Nguyễn Quốc Túy, VIÊN ÂM (1936) cơ quan của Hội Phật Giáo Việt Nam do Bác sĩ Lê Đình Thám chủ trương, VÌ CHÚA (1936) cơ quan của Công giáo do Linh Mục Nguyễn Văn Thích cùng với sự cộng tác của Michel Phan Huy Đức và Bùi Tuân, LA GAZETTE DE HUẾ (1936) (Nhật báo của Huế) do Bùi Huy Tín và Ông Phạm Văn Ký chủ trương và viết bằng Pháp văn, KINH TẾ TÂN VĂN (1936) của Phạm Bá Nguyên, CƯỜI (1936) tuần báo trào phúng của Trần Thanh Mại và Lê Thành Tuyển, SÔNG HƯƠNG (1936) của Phan Khôi với sự cộng tác của Phan Nhung và Nguyễn Cửu Thanh, LES RESPONSABLES (1936) (Những người có trách nhiệm), đặc san bằng Pháp văn của nhóm trí thức tân học như Nguyễn Huy Bảo, Nguyễn Thúc Hào, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Lân nhằm mục đích phổ biến văn minh Âu Mỹ, nhóm này tự cho là mình có trách nhiệm phải lãnh đạo quần chúng, GIÁO DỤC TẠP CHÍ (1941) nguyệt san viết bằng Pháp và Việt Ngữ do Nguyễn Khoa Toàn làm chủ nhiệm.

Chúng ta đã vừa cùng nhau “cưỡi ngựa xem hoa” qua vườn báo chí Việt Nam Nam Bắc Trung, và vì hiểu biết của tôi chỉ có hạn, tôi xin được kết thúc cuộc nói chuyện ở đây.

Vũ Anh Tuấn, Diễn đàn nhà sách Sông Hương