Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Bạn đọc > Nhà báo > Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp "trong mắt" một nhà báo 8X

Xuân Anh p/v

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp "trong mắt" một nhà báo 8X

Thứ Tư 12, Tháng Mười Hai 2007, bởi Cong_Chi_Nguyen

1 *

Hai mươi năm (tính từ năm 1986), chặng đường (văn học đổi mới) từ một đứa bé sơ sinh thành một cô thiếu nữ môi thắm má hồng không phải là quãng thời gian ít ỏi. Đó cũng là thời gian để một nhà văn thỏa sức tung hoành, tạo dựng thương hiệu, vinh danh và cuối cùng là... nhàn rỗi trên danh tiếng đấy. Nhà văn ở thời đại của chúng ta dường như sung sướng hơn rất nhiều, so với Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Nguyễn Bính… Nhưng sự “sướng” đó lại đem đến một kết quả đáng buồn hơn: Dường như chúng ta có vẻ thiếu vắng những tượng đài văn học thực sự.

Trong đó, Nguyễn Huy Thiệp là một trường hợp đặc biệt. Một nhân vật mà sự thu hút của anh ta cũng gây ra nhiều mệt mỏi không kém những hứng thú mới.

Chỉ tính riêng trong giới phê bình văn học, không kể đến những bài báo liên quan đến anh, có lẽ Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng nhiều tranh cãi nhất trong suốt hai mươi năm qua. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì chủ sự cả tập "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", với rất nhiều tên tuổi uy tín như Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân… những nhà văn, nhà thơ đứng đối chiều như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh...

Nhưng bị (hay được) nằm trong tầm ngắm, không có nghĩa anh là nhà văn thực sự xuất chúng. Còn nhớ sau một loạt truyện ngắn khiến tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp nổi danh như Tướng về hưu, Những ngọn gió Hua Tát, giới phê bình văn học vẫn ngơ ngác về tài năng của nhân vật này. Và cho đến hai mươi năm sau, câu hỏi đó vẫn mãi hoài bỏ ngỏ.

Nguyễn Huy Thiệp viết văn khá muộn, tác phẩm đầu tiên của anh ra mắt bạn đọc khi đã 37 tuổi (Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950). Con đường đến tới văn học của Nguyễn Huy Thiệp đầy bươn trải, trễ nải nhưng cũng không thiếu hoa hồng.

Nguyễn Huy Thiệp là trai Hà Nội “xịn”. Sau khi tốt nghiệp Khoa Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Huy Thiệp không ở lại thủ đô mà lên Sơn La dạy học trong suốt mười năm. Mười năm với rừng núi bạt ngàn và những câu chuyện miền ngược buồn đã bồi đắp cho Thiệp một vốn sống về khu vực này không nhỏ.

Khi trở về Hà Nội, Nguyễn Huy Thiệp chưa viết văn mà lao vào kiếm tiền. Khi ấy, Thiệp đã có vợ, có con. Cuộc sống rất khó khăn. Thiệp làm tất cả mọi thứ, miễn là có tiền. Từ làm việc ở triển lãm Giảng Võ, buôn lậu giấy từ Tuyên Quang đến sau này cũng mở một nhà hàng ăn uống bên bờ sông Hồng.

Nguyễn Huy Thiệp dường như không hẳn là nhà văn uyên bác. Anh ta không có những tư tưởng vượt thời đại. Chưa kể dù viết về hiện thực, nhưng trong hàng trăm nhân vật cũng không có nổi một nhân vật mang tính hiện thực điển hình (kiểu như Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng; Chí Phèo, Bá Kiến của Nam Cao hay mức độ dưới hơn là Kiên – đại diện cho lớp tri thức bế tắc và khủng hoảng sau chiến tranh trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh).

Do thế, dù nhân vật của Thiệp đôi lúc khiến ta vừa lạ lùng vừa thân thuộc đến ngỡ ngàng song họ có thể biến mất ngay tích tắc đó.

Nguyễn Huy Thiệp có thể còn là người "nói ngược" lịch sử đại tài. Những truyện ngắn Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết đăng trên báo Văn Nghệ năm 1988 đã gây quá nhiều phản ứng gay gắt, trái ngược về những khái niệm văn – sử; hư cấu – phi hư cấu; chính – tà. Đỗ Văn Khang khi đánh giá truyện ngắn Phẩm tiết cũng vẫn cho rằng Nguyễn Huy Thiệp đã “đạt tới mục đích cuối cùng là hạ bệ một thần tượng của lịch sử dân tộc, một lịch sử phải viết bằng máu và mồ hôi, bằng cả vinh quang và đau đớn mới có được”. Và theo ông thì “tài năng văn chương thì cần nhiều thứ lắm. Vốn sống, vốn sử, vốn văn hoá… Đặc biệt cái tâm mà không sáng thì không thể làm văn được”.

Nhưng những điều đó đã vô tình tạo nên sức hấp dẫn trong truyện của Thiệp thời kỳ đầu tiên. Hiện thực trần trụi va đập vào cuộc đời các nhân vật, khiến họ chỉ là những con rối quay mòng mòng trong mớ đời phức tạp. Có một cái gì đó man dại, bức bối, ngột ngạt xuyên suốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Không thể phủ nhận, Thiệp là người kể chuyện giỏi. Thiệp giỏi hóa thân vào nhân vật ? Có lẽ không phải. Nhưng nếu không phải thì là cái gì đây: kẻ tri thức rởm ngạo mạn, kẻ ăn trộm trá hình, sự lạc lõng của ông tướng về hưu, sự thực dụng đến lạnh người của cô con dâu làm bệnh viện phụ sản đem nhau thai làm thức ăn cho chó, ông chồng bạc nhược, tay nhà thơ hão huyền…

Đó là điều mà người đọc tìm thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Và dù có đủ tinh tế để thấu hiểu sức sống ngắn của văn Thiệp, thì họ vẫn bị cuốn theo dòng xoáy đó.

Cùng thời với Thiệp, cũng có nhiều nhà văn khác không kém phần “đanh đá”. Ví dụ như Ma Văn Kháng phong phú, chanh chua với “Côi cút giữa canh đời” (1989), “Đám cưới không có giấy giá thú” (1990) và một số nhà văn khác...

Nhưng những nhà văn kia không được đón nhận như Thiệp. Chính làn sóng chỉ trích và ủng hộ Nguyễn Huy Thiệp dâng lên ào ạt ngay sau khi ông xuất hiện đã khiến cái tên Nguyễn Huy Thiệp nổi lên như một cơn bão trong mùa khô.

Bí quyết của Nguyễn Huy Thiệp rất đơn giản. Như Trần Đăng Khoa từng nói: Nguyễn Huy Thiệp là người sắc sảo, trí tuệ ư? Không, sắc sảo trí tuệ cái gì, chỉ có phép nói ngược thôi. Anh nói trắng thì nó nói đen, anh nói phải thì nó nói trái. Thiệp chỉ có thế chứ chẳng có trí tuệ gì.

Đọc truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nó giống như là cuộc vật lộn với chính bản thân mình. Tại đó, các nhân vật và chính người đọc cũng dần dần bị tước đi mọi ảo tưởng, ước nguyện, sự thanh cao, lòng tự trọng… Thay vào đó, dần dần họ phải nuốt lợm cổ họng một cảm giác xù xì của thực tế, trần trụi, lạnh lùng, không hy vọng. Nó là con quái vật của hiện thực đang há cái mồm hôi thối phả vào mặt chúng ta. Nó “rút não” chúng ta bằng ngốn ngấu những giấc mơ đẹp. Để những kẻ mộng mơ đang thăng hoa bị lôi bịch xuống hiện thực.

Thế nhưng, trong những “nạn nhân” đó, liệu có ai quay ngược mà hỏi tác giả rằng: Này ông. Ông “lột ” chúng tôi thế nhưng ông có dám tự “lột ” chính bản thân mình không? Ông đừng chối nhé. Ông cũng hão huyền, cũng ảo tưởng, cũng ngông cuồng, cũng luẩn quẩn lắm Nguyễn Huy Thiệp ơi!

Hình như là có…

Những chiến tuyến ngược dội lại Nguyễn Huy Thiệp, ví như Trần Đăng Khoa, Đỗ Văn Khang, Trần Mạnh Hảo đã viết khá nhiều bài phê bình Nguyễn Huy Thiệp. Trần Mạnh Hảo có bài “Người ghét thơ đi bình thơ”, trong đó có ý chê bai Nguyễn Huy Thiệp không hiểu về thơ mà còn bình thơ của Đồng Đức Bốn. Ngoài ra, còn khá nhiều phản ứng dữ dội về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng những phản ứng đó chỉ là một, so với những làn sóng phản đối gấp 10 lần sau khi Nguyễn Huy Thiệp ra tiểu luận “Trò chuyện với Hoa Thủy tiên”. Sự kiện “Hoa thủy tiên” như Nguyễn Huy Thiệp viết, thì phần lớn các thành tựu trong quan niệm, nhận thức văn học của 15 năm trước đó, tính từ ngày Đổi Mới đều bị bỏ qua. Đó quả là một cái tát trời giáng vào các nhà văn đương thời.

Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến không phải là người đầu tiên đọc bản thảo truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng ông chính là người được coi là “khai phá” Nguyễn Huy Thiệp với bài phê bình “Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió”. Ngoài ra, Đặng Anh Đào cũng có bài “Khi ông tướng về hưu xuất hiện”. Đó là có thể là những “bảo đàm vàng” cho sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp.

Có thể hình dung “nghệ nhân” Nguyễn Huy Thiệp trình bày bữa tiệc của mình như thế này: thực khách sau một chặng đường dài mệt mỏi và lạnh lẽo, bèn ghé tạm vào một quán trọ tồi tàn. Ai cũng đói và mệt mỏi. “Chủ quán” Nguyễn Huy Thiệp, với khả năng nấu nướng của mình, mệt mỏi trải chiếc khăn trải bàn ố vàng lên bàn, lôi ra trong xó bếp chồng bát đĩa sắt hoen rỉ. Thức ăn là cơm thừa từ ngày hôm qua, tảng thịt luộc chưa kịp thái, món rau muống già luộc chỗ chín chỗ nhừ. Trong khung cảnh đó, Nguyễn Huy Thiệp như một gã đầu bếp khó tính và gắt gỏng. Nhưng gã có một thứ quyền lực mê hoặc, đơn giản mà gần như là bùa ngải, là thuốc phiện, đó là đánh trúng vào sự “đói đến gần chết” của thực khách.

Không thể phủ nhận, Thiệp là một “nghệ nhân” giỏi trong văn chương. Văn Thiệp rất hay ở những câu ngắn, chấm câu... không đúng chỗ, giàu hình ảnh. Đặc biệt là không khí trong văn chương Thiệp có sức thu hút người đọc lạ kỳ. Cái không khí này nó tạo thành một mạch dẫn tự nhiên, như khi ta bước chân ra khỏi cửa, ta cảm nhận không khí sảng khoái ngày nắng mới tươi rói bủa vây và thấm sâu trong từng thớ thịt. Nhưng giây phút bừng sáng đó tồn tại không được bao lâu, bởi những con ruồi nhặng bắt đầu vo ve bám riết chân ta. Từ bên phải đường, ta nhìn thấy một ả goá bụa giàu có đang ỡm ờ với gã tình nhân trên xe, đậu ngay trước cổng một căn biệt thự to sụ. Gã lấy tay véo đùi ả cười hềnh hệch, cổ họng rung lên ngần ngật. Có một thằng bé ăn xin tiến tới, nó lấy ngón tay vàng khè quệt qua nước mũi đang rỏ tròng tròng, rồi chìa bàn tay đó xin tiền. Đang vui bỗng bị tước mất hứng. Ả xua đuổi thằng bé. Thằng bé vẫn trơ lì. Mà đứng đó lảm nhảm xin. Cáu tiết. Thằng đàn ông đó lấy bàn tay to như hộ pháp tát thẳng vào mặt thằng bé, khiến nó mất thăng bằng suýt ngã ngửa ra phía sau. Thế rồi tự ái, nó bỏ đi. Không một cái quay đầu nhìn kẻ vừa tát mình. Chỉ thấy sau chiếc mũ xùm xụp một tia mắt sắc lẻm, đôi môi cong nứt nẻ thoáng nhếch mép cười. Thế rồi nó biến mất, nhanh và đột ngột như lúc nó vừa xuất hiện. Khi ấy, đôi tình nhân mới hốt hoảng, chiếc ví chứa cả nghìn đô la của ả đã bay biến…

Trong thế giới đó, ai cũng là kẻ lưu manh. Cả người đứng quan sát dường như cũng phải "vào vai" một kẻ lưu manh.

Nhưng hoàn toàn không một lý giải: Tại sao họ lại lưu manh?

Điều này, Nguyễn Huy Thiệp trong hàng ngàn trang viết của mình đã không thể nào lý giải được. Tại sao nhỉ?

2 **

Chẳng hiểu sao trong thời gian này, rất nhiều nhà văn ngại tiếp xúc với báo chí. Có lẽ sau những tuyên bố quá nổ bong bóng, họ cảnh giác hơn với những cuộc tiếp xúc có khả năng ảnh hưởng đến danh tiếng của họ. Trước tôi, một cô bạn đồng nghiệp cũng đã hẹn lên hẹn xuống để gặp được nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Ban đầu, ông đồng ý. Thiệp hẹn cô tới một quán café gần triển lãm Giảng Võ. Khi cô phóng viên đó hộc tốc lao xe tới cùng với một phóng viên ảnh đi kèm, thì nhận được tin nhắn hủy cuộc hẹn của ông. Chán nản và thất vọng, cô yêu cầu Nguyễn Huy Thiệp trả lời qua email để còn kịp nộp bài cho sếp. Hàng chục câu hỏi khá thú vị và thẳng thắn, chắc chắn đã được dày công suy nghĩ. Nhưng nhà văn lại không trả lời. Không một câu nào.

Ban đầu, tôi cũng gặp tình trạng như trên. Tôi gọi điện cho Nguyễn Huy Thiệp và ngay lập tức nhận được câu từ chối sau một cái dập máy lạnh lùng. Nhẫn nại, mấy ngày sau tôi liên tục nhắn tin và gọi điện xin gặp mặt. Chẳng hiểu vì lý do gì rốt cuộc tôi cũng có được một cái hẹn ngay tại tư gia nhà văn. Rất có thể do tôi quá ráo riết, hoặc cũng có thể Nguyễn Huy Thiệp sau những lẩn tránh đã quyết định đối diện với phóng viên nhằm đảo ngược tình thế để lấy cảm tình từ phóng viên chăng?

Dù sao, tôi cũng sẽ gặp một người không phải “tay mơ”.

Ngõ vào tư gia Nguyễn Huy Thiệp là một con ngỏ nhỏ, dài ngoằn ngoèo và hút sâu như hang rắn. Chỉ cần có một xe đi ngược chiều lại cũng đủ gây khó khăn cho người đi xuôi. Phía ngoài ngõ là một chợ phố tạm bợ, nhưng khá đông người. Khó có thể tìm thấy sự thanh thản ở nơi này. Ai cũng hớt hải, chộn rộn và cáu gắt. Xe tôi suýt nữa đâm vào một cái xe đi trước do tắc đường, vậy mà cũng bị một cái nhìn ngoa ngoắt đến cháy lông mày. Chợt nghĩ, đâu đó trong đám người xô bồ này hình như cũng có những nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp. Những con người đã bị tước đi sự mộng mơ, ảo tưởng, niềm tin vào cái đẹp để sống một cuộc sống với con mắt ráo hoảnh.

Hàng ngày, trên con đường trần trụi như thế, nhà văn và “những mảnh nhân vật hóa thân từ anh ta” liệu có khác biệt gì so với đám đông lố nhố đó?

Mở cánh cửa gỗ nâu ẩm mốc rêu, chủ nhà - Nguyễn Huy Thiệp - tiếp tôi là một người đàn ông có nước da nâu sậm, bước đi hơi lật đật, giọng trầm đục, bèn bẹt như một anh nông dân quen cầm cuốc xẻng hơn là người cầm bút. Sau này khi gặp lại Nguyễn Huy Thiệp một lần nữa, trong bộ trang phục sơ mi quần âu giản dị, đi xe “mốt” Attila trắng xóa, tôi vẫn không thấy Nguyễn Huy Thiệp thoát ra khỏi bóng dáng ấy. Anh không có nhiều phong thái của các nhà văn thời kỳ trước. Không hiền hậu chất phác như Nam Cao, không lịch lãm như Nguyễn Huy Tưởng, không hóm hỉnh như Tú Mỡ, không uyên bác như Nguyễn Tuân, không thanh tú như Nguyễn Khải. Phải chăng thời đương đại với những ô nhiễm môi trường và ô nhiễm tinh thần đã tước đi “sự đẹp đẽ” trên khuôn mặt nhà văn?

Theo chân Nguyễn Huy Thiệp, tôi bước vào phòng khách. Căn phòng lồng lộng gió với cửa sổ và cửa ra vào trổ rộng. Nguyễn Huy Thiệp rót cho tôi một ly nước lọc. Về phía mình, anh mở nắp cốc nhựa, bên trong có nước đậu nành đang uống dở. Anh nói, dạo này ngày nào anh cũng uống nước đậu để tăng cường sức khỏe. Câu chuyện dở dang thi thoảng bị ngừng lại, Nguyễn Huy Thiệp cầm cốc nước đậu nành lên, nhấp chút môi. Một động tác nhỏ đó cũng đủ thấy cuộc sống của nhà văn dạo này khá điều độ.

Tôi cũng uống một ngụm nước, tranh thủ lướt mắt nhìn quanh phòng khách. Nguyễn Huy Thiệp chắc chắn không phải týp người sành như ông bạn thân Lê Thiết Cương. Ngôi nhà có nội thất khá sơ sài, không tủ tường đựng sách, không đồ cổ. Hoàn toàn không đẹp đẽ và kiểu cách như tôi từng hình dung. Ngay bản thân Nguyễn Huy Thiệp cũng rất giản dị. Tuy nhiên, đó không phải là vẻ đẹp được giản dị hóa, mà là sự giản tiện đến tuềnh toàng.

Cây bút từng được ví là sắc sảo như lưỡi gươm ở thời điểm xuống dốc không còn (hoặc cũng có thể là không có) vẻ uy nghi, sự hào sảng và cách nói chuyện đầy mê dụ của một “đức quân vương” (Nguyễn Huy Thiệp được tụng xưng là “ông vua truyện ngắn”). Trái lại, giọng nói lắp bắp khiến những câu chuyện rời rạc càng thêm bị cắt đoạn. Những người nói lắp không phải do tật từ trong cuống lưỡi, mà do tâm lý tự kỷ khiến họ khó khăn trong diễn đạt. Có thể khi gặp những người khác, Nguyễn Huy Thiệp sẽ không như vậy. Nhưng ít ra với tôi, trong hai lần gặp, lần nào Nguyễn Huy Thiệp cũng nói lắp. Anh không thích nhìn thẳng vào mắt người đối diện, chỉ nhìn quanh quất đâu đó. Thi thoảng dừng câu chuyện, liếc xem tôi phản ứng ra sao.

Cái nhìn kiểu Nguyễn Huy Thiệp có thể không phải là sự dò xét, vì người như anh chắc chắn chẳng nề hà đến chuyện người khác nhìn nhận mình ra sao. Có lẽ, cái nhìn đó như muốn khẳng định đẳng cấp cao hơn trong cuộc nói chuyện với tôi. Dù sao, những ảo tưởng trong tôi đã tắt. Ngay từ lần đầu tiên gặp con người này.

Đó là một buổi tối cách đây chừng hai năm. Một “lễ mở xiêm y” của đào nương Phạm Thị Huệ. Theo tục hát ca trù (còn gọi là hát ả đào), sau khi đào nương học xong các ngón nghề của thầy, cô phải có một buổi lễ ra mắt chính thức với khán giả, được gọi là “lễ mở xiêm y”. Đào nương Phạm Thị Huệ vốn là giảng viên Nhạc viện Hà Nội. Trước đây chị chuyên chơi tỳ bà, và được đánh giá là người chơi đàn tỳ bà hay nhất Việt Nam (theo Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền). Con đường đến với ca trù của đào nương xinh đẹp này đã có nhiều bài báo viết đến. Hôm đó, “lễ mở xiêm y” được dựng tại tư gia (đồng thời cũng là gallery) của họa sĩ Lê Thiết Cương.

Gallery chật cứng chỗ ngồi. Nhóm của chị Huệ gồm có chị và hai người thầy là cụ Chúc và cụ Đẹ được phong là nghệ nhân đến từ Hà Tây và Hải Dương. Đây là một nhóm hát ca trù có cỡ, dù Huệ khi đó mới chỉ học ca trù vài tháng. Trong buổi lễ ra mắt đó, có một người đàn ông hơi thấp, bồn chồn đi lại, mặt tỏ vẻ không hài lòng.

Buổi lễ bắt đầu. Tay MC giới thiệu về nhóm và cảm ơn các quỹ tài trợ nước ngoài. Khi ấy, chính người đàn ông mà tôi chú ý trước đó cất lên một giọng nói đanh thép ngay bên cạnh tôi: Nhớ nói là anh Lê Thiết Cương “tài trợ” hai triệu đấy nhé! Rồi giọng lại lí nhí, như chửi tục một câu gì đấy. Tôi liền hỏi ngay người bạn đi bên cạnh, và khi ấy mới hay là “ông vua truyện ngắn” Nguyễn Huy Thiệp. Chừng mười lăm phút sau, như không tiêu hóa nổi “món” này, Nguyễn Huy Thiệp bỏ về.

Hai năm sau, tôi mới có dịp gặp lại Nguyễn Huy Thiệp. Một lần tại tư gia, lần khác tại một quán café tại khu phố từng là điểm đến của “dân chơi” Hà Nội: phố Hàng Hành.

Buổi trò chuyện này được thực hiện khi tôi ở nhà Nguyễn Huy Thiệp. Nghĩa là khi tôi đối mặt với anh ta, Nguyễn Huy Thiệp cố gắng thể hiện trạng thái mềm mỏng và xã giao nhất có thể. Có lẽ khi mời tôi đến nhà, Nguyễn Huy Thiệp muốn cho tôi thấy một trật tự gia đình, một niềm tự hào lớn lao của anh?

PV: Phải sau 10 năm làm giáo viên, anh mới viết văn. Thế là có khoảng gần 10 năm lặng lẽ của Nguyễn Huy Thiệp. Hồi ấy, khi còn là giáo viên tại Sơn La, anh thực sự mong muốn điều gì?
- Khi ấy tôi là trai Hà Nội xịn, 20 tuổi lên ở vùng núi rừng 10 năm. Tôi đang từ nơi đô hội đi lên vùng núi dạy toàn những... ông bà già. 10 năm sống với rừng núi, thiên nhiên, sách vở. Tôi bạ sách gì đọc sách đấy, từ sách dễ đến sách khó. Gần như kho sách của Khu tự trị Tây Bắc đã bị tôi nghiến gần hết. Hồi đấy quyền uy của vua Mèo cũng đỡ đi rồi, tôi ở vùng Thái, thấp hơn.

Ở Tây Bắc buồn lắm, không biết phụ nữ, muốn gửi một cái thư phải đi tới 17 cây số. Tôi dạy ở trường Bổ túc văn hóa cán bộ (sau này đổi tên thành trường Bổ túc văn hóa công nông). Nghĩa là tôi phải dạy người đã đi làm, lớn tuổi. Trong khi mình là một thanh niên 20 tuổi. Họ là những cán bộ miền núi người Thái, người Mèo và bộ đội người Kinh. Văn hóa chỉ lớp 1 lớp 2 nhưng lại nắm giữ chức vụ khá cao, chủ yếu là cán bộ quan trọng nhất của Khu tự trị. Họ có tinh thần kỷ luật cao, rất ham học, nghiêm túc và cố gắng thực sự. Như kiểu týp người cũ đặt ý chí phấn đấu lên hàng đầu. Trong 3 năm đầu tiên, tôi dạy nhiệt tình và hết lòng vì học viên. Giảng giải từng tí một, từ lớp 3 đến lớp 10. Tôi tốt nghiệp Sử, nhưng phải dạy tất cả các môn, từ Văn, Địa lý, đến Chính trị, Toán... vì thiếu giáo viên.

Giáo viên cấp III chỉ có 3 người, trong đó có tôi, một anh giáo viên Toán và một giáo viên Văn (học bổ túc lên). Hồi ấy quy củ chẳng ra làm sao, lớp của tôi bị nợ rất nhiều môn. Những chương trình từ lớp 3 đến lớp 10 nhiều như thế tôi phải tìm cách rút gọn đi.

3 năm sau, tôi cũng nản, thất vọng. Tôi nhận ra không ai dạy được ai, nhất là khi đã có tuổi rồi. Bộ óc già đi muốn nhét chữ thì cũng chịu.

PV: Khi ấy anh đã nghĩ sau này mình sẽ quẳng phấn mà cầm bút thành nhà văn?
- Mơ ước thì từ nhỏ tôi cũng loáng thoáng nghĩ tới, vì nhà tôi có nhiều sách. Khi lên Tây Bắc, đọc nhiều hơn, thì cái mong muốn ấy được thêm củng cố. Nhưng tôi cũng chẳng biết viết thế nào. Có lẽ do đọc nhiều quá nên trong lòng mình tự bộc phát lên thôi. Cũng có những truyện tôi viết từ năm 20, 21 tuổi. 10 năm sống trên đó tôi giống như một tu sĩ.

PV: Những người tài đa phần cô đơn lắm! Họ thường xuyên khắc khoải, đau đáu chứa đựng những điều chưa thực hiện được. Một nhà văn Nga có nói, hạnh phúc là hành động tìm mọi biện pháp để lấp đầy sự thiếu hụt mình không thể nào thực hiện được. Thực sự, đó là những khoảng trống không thể nào lấp đầy, vì khi lấp đầy được là khi ấy anh “hỏng”. Anh sẽ chẳng còn viết, chẳng còn hoàn thiện được nữa. Hồi trẻ, anh đã cảm nhận được điều đó chưa?
- Mới chỉ lờ mờ thôi. Mà sao tuổi trẻ của tôi không cô đơn? Chỉ khi người ta sống, càng về già mới càng cô đơn. Tuổi trẻ trong lòng có nhiều ham muốn điều này điều kia nên tôi không thấy cô đơn. Tôi chỉ thấy buồn thôi. Nhưng về sau càng nổi tiếng tôi càng thấm thía sự cô đơn. Tôi có nhiều người yêu và cũng có nhiều người ghét.

Khi trở về Hà Nội, tôi cảm nhận rõ ràng về sự lạc lõng, dù quê cha đất tổ ở đây. Lúc ấy tôi chưa có danh tiếng. Phải làm đủ việc, lao động vất vả nuôi gia đình. Nhìn ra xã hội thấy mình chẳng bằng ai. Tôi cũng mong muốn, khát khao có danh tiếng như họ. Cũng muốn đi nước ngoài, trở thành người nọ người kia. Nhưng thực sự nhu cầu kiếm tiền nhiều hơn. Tôi hiểu rất rõ: không kiếm được đồng tiền sẽ nguy to.

PV: Lý trí khi ấy đã đạp đổ những giấc mơ. Anh có thấy mình tỉnh táo quá không?
- Tôi không biết. nhưng tôi nghĩ ai cũng tỉnh táo thôi. Hơn nữa khi ấy tôi có bố mẹ già, đã có vợ và 2 đứa con. Vợ tôi dạy học ở trên Bắc Ninh. Lúc đó tôi không viết văn. Tôi làm việc ở triển lãm Giảng Võ, buôn bán giấy.

PV: Ngày ấy làm gì có buôn bán. Ý anh nói là buôn lậu?
- Bọn tôi buôn lậu từ trên Tuyên Quang, mua với giá bao cấp của Nhà nước. Tôi còn nhớ mua ở Tuyên Quang có 350 đồng một cân, mà đem về Hải Dương bán được 1800 đồng. Nếu đem tới Nam Định còn bán được 2000 đồng cơ mà! Tôi rất liều lĩnh. Tôi tự tổ chức và tìm thêm một, hai lái xe cùng đi theo tôi. Hồi ấy tôi có rất nhiều tiền, thậm chí có người nhờ lập kế hoạch, tổ chức và bán lẻ cho học sinh ở trường.

Trong quá trình đó, tôi nhận ra rằng khi mình ở những nơi thấp, xa xôi, lạc hậu thì con người có ý thức hướng thượng, sống nghiêm túc hơn những người ở nơi “cao”. Tôi thất vọng, nên tôi bỏ nhà nước là thế.

Có nhiều yếu tố khiến tôi bỏ Bộ Giáo dục. Khi đi kiếm sống vất vả, biết nhiều, mong muốn viết văn chương của tôi trỗi dậy.

PV: Có luồng dư luận cho rằng, truyện ngắn của anh giống phóng sự nhiều hơn là văn học. Những truyện sốc thường dễ gây hiếu kỳ. Nhờ đó mà anh đã gặp thời?
- Có lẽ là như vậy “Có thời có tự mảy may. Không thời cả thế gian này cũng không”. Cho nên có lẽ tôi là một trong những nhà văn hợp thời sau Đổi mới. Tướng về hưu xuất hiện sau 87. Cùng với Tướng về hưu, tôi cũng có một tập truyện trong tay. Thời đến đúng lúc và trước đó tôi cũng có 10 năm tích tụ. Cô làm nghề viết sẽ biết ngay. Mình sống thế nào mình mới viết được. Mình ngồi một chỗ không viết được đâu. Viết phải đi, đọc và sống trong dòng chảy của nhân gian.

PV: Khi ấy, bài phê bình "Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió" của “giáo sư” Hoàng Ngọc Hiến có phải chất xúc tác cho danh tiếng của anh vụt sáng?
- Đó cũng chỉ là một yếu tố thôi. Khi tập bản thảo của tôi gửi vào miền nam, người đầu tiên đọc là Nguyễn Duy và Thu Bồn. Tập truyện đầu tiên của tôi được in trong Sài Gòn.

PV: Anh có nghĩ, nếu in vào thời điểm này, tập truyện ấy chưa chắc gây được nhiều tiếng vang như thế?
- Cũng có thể. Tôi cũng không biết nữa. Bạn đọc mỗi thời một khác. Bạn đọc thời ấy cũng có thể có sự ấu trĩ thế nào đấy, tôi không biết. Bạn đọc bây giờ có trình độ hơn, ghê gớm hơn chăng? Tôi không rõ tôi có phải là một tay nhà văn gặp thời không. Nhưng văn học phản ánh cuộc sống. Cái hay cái dở cũng chỉ là một khía cạnh thôi, như xem xét con người có nhiều khía cạnh. Con người đa dạng lắm, ở nhà khác, trong xã hội khác. Khi tôi mặc một bộ cánh là tôi trở thành một người khác. Lúc thật lúc giả, nhiều cái phức tạp.

PV: Anh cảm thấy anh sống thật được với mình đến mức độ nào? Anh có dám khẳng định mình không đeo mặt nạ khi bước ra ngoài xã hội không?
- Tôi không biết, nhưng những người bạn bè đều công nhận tôi sống thật. Tôi là người sống thật...

3 ***

Trước khi bước vào nhà Nguyễn Huy Thiệp, tôi nhìn thấy ở phía góc phải bỗng dưng chồi lên một tượng Phật Bà Quan Âm bằng xi măng to màu ghi xám. Tượng Quan Âm với khuôn mặt phi giới tính, nhìn bên trái hao hao là đồng nam, bên phải lại hao hao là đồng nữ, không toát lên sự thoát trần và uy nghiêm. Bức tượng hoàn toàn không ăn nhập với khung cảnh xung quanh. Nó không khiến không gian được thanh thoát, thoáng đãng, mà e rằng, như khiến ngôi nhà lẽ ra thoáng đãng lại có chút gờn gợn. Bức tượng trơ trọi, lẻ loi, đơn côi trong một khung cảnh khá hữu tình. Dường như Nguyễn Huy Thiệp cố nén bức tượng vào đó, chứ có lẽ, nếu có thể cất thành lời, chắc cũng ai oán: Thiệp ơi ông đừng đẩy tôi đến sự tàn nhẫn và phi lý của hiện thực như đẩy những độc giả của ông nữa!

Có lẽ bức tượng giống như một nguyên mẫu nào đấy trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp hơn. Phải chăng đó chính là là sự tưởng tượng của Nguyễn Huy Thiệp về nàng Mỵ Nương trong Trương Chi hay nàng Hồ Xuân Hương trong Chút thoáng Xuân Hương? Hay đó chính là Nguyễn Huy Thiệp tự phóng tác mà đặt hình ảnh của mình trong đó? Có lẽ điều này chỉ có Nguyễn Huy Thiệp mới biết được…

PV: Trước khi bước vào nhà, tôi thấy có một tượng Phật Bà Quan Âm bằng xi măng màu ghi xám. Điều gì khiến anh dựng cả tượng Phật trong nhà?
- Tôi dựng tượng năm 1991. Nguyên do thì nhiều lắm. Nó bắt đầu sau một cú sốc về chuyện văn chương và trong cuộc sống. Hồi đấy tôi có viết kịch bản phim. Hồi ấy danh tiếng của tôi cũng đang lẫy lừng....

Nó là một nhu cầu nội tâm. Họa sĩ điêu khắc Nguyễn Hồng Hưng cùng với tôi và thợ cùng làm. Có tượng, ngôi nhà này yên tĩnh hẳn. Bà vợ tôi trồng thêm rau cỏ quanh vườn, không phải mua thêm ngoài.

Khi ấy tôi rất chán nản. Tôi cũng tự suy nghĩ và sắp xếp lại trong lòng mình. Cuối cùng tôi tự chọn lựa một lối sống từ năm đó đến giờ là tránh xa mọi cám dỗ.

PV: Tránh xa mọi cám dỗ?
- Không phải. Tôi cũng không biết, nhưng tôi cảm thấy tôi cần phải làm như thế. Và tôi lờ mờ nhận ra sống ở trong xã hội, có nhiều lối sống khác nhau. Chọn lối sống của người bình thường là điều tốt nhất. Càng ở những nơi tôn danh, tiền bạc, thế lực, nó có thể hợp với người này, người kia nhưng không hợp với tôi. Tôi chọn lối sống như cỏ cây. Cô đến nhà tôi sẽ thấy vợ chồng tôi tự trồng rau lấy ăn, cố gắng trở về với thiên nhiên. Nhiều nơi mời mọc ghê gớm quá thì tôi cũng lùi đi.

PV: Anh khẳng định anh đã thoát khỏi những ma lực mê hoặc tạo nên bất hạnh cũng như hạnh phúc của con người: danh tiếng, tiền bạc và sắc đẹp...?
- Mà tôi cũng giống như mọi người thôi. Tôi cũng ham nổi tiếng, tiền bạc và phụ nữ. Nhưng tôi phải từ chối. Có nhiều người quý tôi đến mức độ tôi cũng không ngờ tới. Có khi cũng phải “chuồn”.

PV: Đâu phải lúc nào cũng “chuồn” được đâu?
- Đúng thế.

PV: Như anh từng nói, anh cũng muốn mọi người hiểu: Nguyễn Huy Thiệp không giống như mọi người nghĩ đâu! (cũng giống như nhà văn Hồ Anh Thái trong một bài viết của VietTimes). Anh bị quá nhiều hiểu lầm?
- Càng người thân càng hiểu nhầm tôi. Đầu tiên từ gia đình, vợ con. Đấy là điều mà tôi rất vất vả. Còn với người ngoài, ví như khi tôi có danh tiếng, khi khách đến, họ thấy nhà tôi rất rộng (1000 mét vuông), thì sẽ nghĩ này nọ ngay. Mà nghề văn kiếm được tiền bao nhiêu đâu? Nhưng tôi may mắn vì ở trong và ngoài nước in tác phẩm của tôi đều đều từ năm 1987 đến năm 2005. Thế nhưng nhiều khi tên tuổi lớn quá, không cẩn thận sẽ ảnh hưởng trước hết đến những đứa con của mình. Tôi có 2 thằng con trai, cũng may chúng đều là họa sĩ, bán được tranh.

PV: Anh cũng có những chuyện lo âu về con cái. Phải chăng trong một gia đình có quá nhiều nghệ sĩ với những cá tính quá mạnh sẽ gây nên nhiều xung đột?
- Giống như một cái cây trong vườn. Khi nó lớn quá thì các cây khác bị mặc cảm, bị co lại. Nguyễn Bảo Sinh có đùa: bố tiến thì con lùi và bố lùi thì con tiến! Cho nên sống trong gia đình phải nhìn nhau. Tôi chủ trương sống trung dung, không hèn quá và cũng không ngông nghênh quá. Nhìn chung không thể nào giáo dục được bằng lời nói. Như cuộc sống trong gia đình, tôi vẫn quan sát mọi người, tôi biết ai tận tụy với ai chứ. Giống như trong một cơ quan, ta biết được tay nào ghê gớm, tay nào nói dối và tay nào nói thực ngay.

PV: Với những gì anh đã nhận được từ văn chương, anh có nghĩ chuyện buồn của gia đình anh là một cái anh phải cho đi, đúng theo thuyết quân bình. Mọi thứ trên một đời người cộng lại đều trở về nguyên khởi. Ai cũng như ai. Ai cũng phải CHO thứ này để NHẬN lại một thứ khác?
- Tôi nghĩ giữa nguyên nhân và kết quả trong cuộc sống của con người có nhiều mối nhân duyên với nhau. Như nhà Phật nói, khi anh gieo nhân nào anh sẽ gặp quả ấy. Sự nổi tiếng có thể đem tới một kết quả tốt và có khi ngược lại. Sự giàu có và nghèo hèn cũng thế. Tôi theo thuyết trung dung, không để cho mình hèn quá cũng không tâng bốc mình lên. Tôi giữ thuyết trung dung trong tư tưởng, tình cảm và lối sống. Tôi khuyến khích mọi người trong gia đình sống như thế. Cách sống thế rất khó. Phải trả giá nhiều tôi mới rút ra được ý thức sống như trên. Đó là cái tu dưỡng cho bản thân mình. Phải biết tự điều chỉnh để có sự cân bằng. Thấy gì lớn quá thì cũng phải lùi đi. Chứ nếu tham sân si đến chết thì khổ lắm!

PV: Danh tiếng của anh có ảnh hưởng nhiều đến con cái?
- Không cẩn thận chúng sẽ ỷ vào danh tiếng của bố.

PV: Hình như là ỷ rồi đấy chứ?
- (Cười) Đúng. Chúng nghĩ ông bố nhiều tiền thì muốn gì cũng được.

Nói rồi Nguyễn Huy Thiệp dẫn tôi lên tầng 2, xem xưởng vẽ của Khoa và Bách. Tranh Khoa màu sắc chói lọi, chưa nhuần nhuyễn nhưng đã hé lộ những cá tính rất riêng. Còn tranh Bách theo nghệ thuật pop-art của Trung Quốc, có những bức lạnh lùng và vô cảm như tranh truyền thần (Lê Thiết Cương từng phân tích). Nhìn tranh, dường như Bách có vẻ giống cha nhiều hơn. Cách đây chừng năm rưỡi, Bách có ra triển lãm đầu tiên.

PV: Khi Bách ra triển lãm đầu tiên, có rất nhiều bút danh lạ ký dưới những bài khen triển lãm tranh của Bắc. Có những thông tin, đó là Nguyễn Huy Thiệp chứ chẳng ai xa lạ. Đúng là kiểu “Con vẽ bố khen đẹp”. Có phải anh viết không?
- Ừ. Mình cũng phải động viên và sử dụng hết mối quan hệ để giúp nó chứ. Mình giúp người ngoài được mà sao con mình mình lại không giúp? Hai thằng con tôi, tôi cũng bằng mọi quan hệ của mình để tổ chức triển lãm và bày tranh bán ở gallery. Nó sống được và tự tin thì cũng là điều tốt cho tôi. Có thế tôi mới rảnh rang đi chơi được. Như trong Trò truyện với hoa thủy tiên, các nhà văn phải biết cách tổ chức đời sống thế nào để anh vừa viết vừa sống được. Văn chương dễ đưa lại tai nạn lắm. Nhiều khi chỉ vì danh hão mà rất phiền. Đánh giá một con người, có khi phải đến khi người ta qua đời rồi mới biết rằng hay hay dở.

PV: Hàng ngày nếu không viết văn thì anh làm gì?
- Tôi chẳng làm gì cả. Lang thang thôi (cười).

Nói rồi Nguyễn Huy Thiệp đứng dậy bắc nồi cơm.

PV: Buổi trưa mọi người có hay ăn cơm cùng nhau không?
- Có. Vợ tôi cũng hay về. Bà ấy toàn nấu thức ăn trước. Còn tôi chỉ phải cắm nồi cơm thôi.

Khi mời tôi đến nhà, Nguyễn Huy Thiệp có lẽ đã tiếp tôi theo cách bặt thiệp nhất có thể. Anh giới thiệu phòng trong nhà: phòng làm việc của hai đứa con trai Bách và Khoa, phòng mới của vợ chồng Bách, nơi tạo nên cảm hứng viết văn và vẽ vời, từng cái cây trong vườn… Nguyễn Huy Thiệp chắc hẳn đang rất hài lòng với không gian êm đềm đó.

Nguyễn Huy Thiệp nhã ý mời tôi ở lại ăn cơm, theo phép lịch sự, nhưng tôi từ chối. Tiễn tôi ra cửa, tôi còn được tặng những chiếc đĩa sứ ký chữ Thiệp to đùng làm kỷ niệm, gói ghém cẩn thận trong chiếc túi ni lông như thói quen của người dân quê tặng khách tới thăm. Đó là một sở tài lẻ khác của Nguyễn Huy Thiệp: vẽ trên đĩa sứ. Có cả chân dung của Lê Lựu, Nguyễn Duy, Bảo Ninh, Châu Diên, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Đỗ Hoàng Diệu, Tô Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Văn Cao, Hồng Thanh Quang và một bức tranh vẽ về Khoa, người con trai thứ hai từng bị nghiện của Nguyễn Huy Thiệp.

Tôi cảm động, dắt xe ra khỏi cổng. Nhưng trong lòng vẫn còn nhiều điều chợn rợn. Tôi đi trước. Nguyễn Huy Thiệp đi đằng sau. Tôi bỗng giật mình. Quay lại. Nguyễn Huy Thiệp mặt cứng đờ, không chút cảm xúc. Dù sao vẫn chỉ là cảm giác của riêng tôi. Khi Nguyễn Huy Thiệp đóng cánh cổng gỗ lại, một sự hoang mang trào dâng. Tôi ra về. Trong lòng sự nghi ngờ lổm ngổm bò.

4 ****

Vài ngày sau, tôi cố gắng thuyết phục anh, thêm một lần nữa.

Y như tôi đoán, lần gọi đầu tiên, Nguyễn Huy Thiệp trở lại sự lạnh lùng như lúc tôi chưa từng gặp. Nhưng rồi anh cũng đồng ý, hẹn tôi đến trò chuyện và tặng sách tại café phố Hàng Hành. Buổi hẹn chính xác là 2 giờ chiều.

1 giờ 40’: Tôi đã có mặt tại quán cafe 39 Hàng Hành. Đợi đúng đến 2 giờ.

2 giờ 10’: Khách đến và đi. Nguyễn Huy Thiệp vẫn chưa đến. Nhưng tôi quyết định chưa gọi. Nếu thực sự muốn đến, sẽ không cần phải gọi.

2 giờ 20’: Quá sốt ruột. Tôi quyết định gọi. Nguyễn Huy Thiệp mở máy trả lời. Thiệp đang ở một nơi khá ồn. Anh bảo sẽ đến ngay.

2 giờ 40’: Tôi vẫn ngồi chờ. Gọi lại lần thứ hai. Nguyễn Huy Thiệp mở máy.

Hóa ra Thiệp đã đến Hàng Hành lâu rồi. Nhưng lại không phải quán tôi ngồi, mà một quán khác, cũng mang số 39, ngay bên cạnh.

Thoáng chút nghi ngại, tôi rời sang bên quán kia. Nguyễn Huy Thiệp đang hí hoáy viết, một xấp bản thảo viết tay vài trang đặt bên dưới. Anh nói đang viết về Hàng Hành, một truyện ngắn đặt hàng Tết. Tôi hỏi:

Anh ngồi đây từ bao lâu rồi?
- Tôi ngồi từ hơn 1 giờ. Cứ tưởng cô không ra.

Nguyễn Huy Thiệp trả lời miễn cưỡng. Tay lật đi lật lại tờ giấy giới thiệu tranh của một nữ họa sĩ sắp có triển lãm tại Gallery Lê Thiết Cương.

Nói rồi Thiệp đổi ý, bảo qua nhà Lê Thiết Cương phỏng vấn. Tôi lại lóc cóc qua bên đó. Như một con rối ý thức được việc mình đang bị điều khiển.

Gallery Lê Thiết Cương nằm trên đường Lý Quốc Sư. Một Gallery khá nổi tiếng trong thời gian gần đây hỗ trợ giới thiệu tranh của những họa sĩ trẻ. Nơi đây cũng tổ chức nhiều triển lãm ảnh của chính Lê Thiết Cương và bạn bè như “Răng và Tóc”, 80.00… Lê Thiết Cương là dân họa sĩ, nhưng cũng hay thích viết lách. Cương hay chơi với nhiều nhà văn thích “tay ngang” vào hội họa như Nguyễn Huy Thiệp...

Đặc biệt, với Nguyễn Huy Thiệp, Cương có một mối quan hệ sâu đậm. Hai người con trai của Thiệp theo con đường hội họa cũng là những học trò ruột của Lê Thiết Cương. Bởi thế, dù lần này Cương đi Hàn Quốc, nhưng Thiệp khi nào lên phố vẫn thi thoảng ghé chơi.

Đến nhà Lê Thiết Cương, Nguyễn Huy Thiệp bảo tôi chờ cửa trước, còn anh vòng qua cửa sau, vào bên trong, qua cửa trước mở cửa y như chủ nhà. Phải nói rằng, đó là một gallery đẹp. Mọi đồ đạc trong đó, từ những bàn ghế cổ đến những tác phẩm điêu khắc đương đại cũng được sắp xếp hài hòa. Nó cho thấy gu thẩm mỹ cao và sự tinh tế của chủ nhân.

Lần tiếp xúc thứ hai này, Nguyễn Huy Thiệp và tôi cùng uống trà. Bộ ấm trà cổ với họa tiết đơn giản mà vô cùng thâm thúy. Cầm chén trà trong tay mà xúc động, như ta đang được thưởng ngoạn trà cùng với tổ tiên xa xưa. Thời gian siết chặt lại. Ngọn trà thấm đượm nơi đầu lưỡi. Những câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp từ đó mà tuôn ra, lúc khoan lúc nhặt. Nguyễn Huy Thiệp trong dòng mạch đó vừa co ro lại vừa bạt mạng, vừa khiêm tốn lại vừa ngạo nghễ, vừa thực dụng lại vừa mơ màng…

PV: Ngòi bút đã nuôi sống anh hai mươi năm rồi. Anh cũng có không ít danh tiếng, tiền bạc và một cuộc sống gia đình êm thấm. Nhưng nghệ sĩ, nhất là nhà văn thì cầu toàn lắm. Đến bây giờ, có điều gì khiến anh chưa hài lòng về bản thân?
- Thứ nhất, tôi bỏ đi nhiều cơ hội quá để có thể sống hay hơn. Thứ hai, nói cống hiến thì xa xỉ quá nhưng tôi có thể làm được nhiều điều tốt hơn. Như học ngoại ngữ hay một số kỹ năng sống khác, lái xe hay tự chăm sóc bản thân. Tôi là người không biết tự chăm sóc bản thân. Đây là điều tôi rất sốc khi lần đầu tiên đi Mỹ năm 1996 theo một Chương trình quốc tế. Tôi được đi tới mười mấy bang nước Mỹ theo lời mời của Bộ Ngoại giao Mỹ, sống trong nhiều gia đình người Mỹ nhiều tháng trời. Ô tôi choáng! Đó cũng là lần đầu tôi được đi nước ngoài.

PV: Anh choáng sao?
- Tức là, bản thân tôi, gia đình tôi hay là.... Mình vô lối trong nhiều thứ, từ trong cá nhân mình. Anh không biết đánh răng thế nào. Anh không biết bảo vệ hàm răng của mình ra sao. Ngay từ nhỏ trẻ con đã được dạy dỗ cách chăm sóc bản thân. Và bình quân mỗi cuộc đời họ mất khoảng 10 nghìn đô dành cho việc chăm sóc răng miệng. Xin lỗi nhé, mình cũng không biết làm tình như thế nào. Hay ăn uống mọi thứ của mình ngu quá! Tôi nhìn thấy những mâm cỗ ê hề những độc tố. Bên kia ăn uống rất khôn. Buổi sáng họ uống nước cam cho sạch ruột và nhấm nháp mẩu bánh mì rất nhẹ nhàng. Buổi trưa ăn nhanh làm việc. Buổi tối gặp bạn bè, uống rượu từ 9 giờ tối.

Tôi thấy từ những kỹ năng cá nhân đến kỹ năng sống trong gia đình và xã hội được nghiên cứu rất hệ thống. Khi đi thuê nhà, nếu có 6 người mà chủ nhà chỉ có 4 phòng thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của những người sống trong đó. Nếu bị phát hiện, ông chủ nhà sẽ bị phạt.

Khi về Việt Nam tôi viết truyện Không có vua. Trong mấy mét vuông mà có bao nhiêu người đi ra đi vào, rồi cởi quần áo trước mặt nhau. Sau khi đi Mỹ về (hồi đó đã kinh doanh nhà hàng Hoa Ban bên đầu cầu Chương Dương), tôi đã quyết định lấy vốn về, đập nhà cũ và làm cái nhà này. Cô sẽ nhìn thấy đây vẫn là ngôi nhà ba gian, vẫn có phòng cho mỗi người. Và nhà tôi có lẽ là đầu tiên có nhà vệ sinh ở làng này. Sau tôi nâng thêm một tầng do nhu cầu vẽ của con.

Mình kiếm tiền làm gì nếu như mình sống mệt như vậy?

Tôi đi thăm các trường, thấy họ tổ chức rất giỏi. Ví dụ ông bà đẻ con phải có trách nhiệm nuôi cho nó học hết phổ thông, đó là trách nhiệm của bố mẹ. Nhưng đến khi vào đại học, anh phải tự vay tiền ngân hàng đóng học phí, dù anh có là con nhà giàu đi chăng nữa. Cho nên sau khi tốt nghiệp, trên lưng anh có món nợ rất lớn. Anh phải cố học giỏi, kiếm được việc không thì không thể nào trả nợ. Những thanh niên khi vào trường đại học không thể ỷ lại được. Ở Việt Nam toàn ông bố bà mẹ gửi tiền cho con. Tưởng học hóa ra toàn đi ăn chơi. Lối giáo dục thanh niên bên kia không để cho thanh niên ỷ lại và bao cấp như thế.

PV: Theo ý của anh cái vòng luẩn quẩn nó vẫn còn luẩn quẩn lắm à?
- Chẳng ai thoát được cả. Cô tưởng tôi thoát được à? Cô tưởng NQT thoát được dù ông ấy đi nước ngoài rất nhiều? Trong điều kiện của tôi, tôi cố gắng hoàn thiện tốt nhất.

PV: Những bế tắc trong cuộc sống có dẫn tới những bế tắc trong sáng tác?
- Nhìn chung người viết thường cố gắng làm sao biết nhiều, đọc nhiều, hiểu nhiều. Một trong những sứ mạng của họ là khai hóa. Khai hóa dân trí, khai hóa sự man di mọi rợ. Tôi nhìn hai thằng con tôi. Mắng: sao mắt của bọn mày nhìn nhanh thế? Sao đảo đi đảo lại như rang lạc thế? Chúng nó không hiểu tôi.

Mình về chỉ nhìn thấy ánh mắt của con mình là đã đau rồi. Tôi cũng biết thế nên bao nhiêu năm, có thể do chiến tranh, hoặc do điều nọ điều kia nên Văn của mình nó man di mọi rợ. Nó vô lối chẳng ra một kiểu gì. Những giá trị đáng kể đấy bị tầm thướng hóa, bị dung tục hóa, bị suồng sã. Rồi những giá trị vớ vớ vẩn vẩn lại được tôn vinh.

Những chuyện ấy nó cũng là những chuyện thường. Nhưng khi mình gia nhập WTO sẽ là điều tốt hơn. Chứ trước kia là một mình mình chơi một kiểu, luẩn quẩn. Cả thế giới họ có một lối rồi. Mình cứ như thế mà làm.

PV: Anh cũng là một trong những nhà văn sống tốt bằng nghề đấy chứ?
- Tôi cũng kiếm được. Nhưng tôi sống rất thanh đạm. Trong chừng ấy năm viết văn, tôi kiếm được khoảng độ 70, 80 ngàn đô gì đấy. Nhưng nó rải rác. Và nếu chia đều ra thì cũng chỉ bằng một người công chức sống bình thường thôi...

5 *****

PV: Tại sao anh lại đồng ý cuộc trò chuyện này? Tôi hỏi thế vì nhiều nhà báo trẻ đã nói rằng rất khó gặp được Nguyễn Huy Thiệp.
- Đương nhiên lúc đầu khi cô nhắn tin cho tôi thì lúc đấy tôi không muốn gặp. Tôi từ chối ngay. Nhưng sau tôi ngẫm lại, hoàn toàn không phải vì ai đó... Tôi nghĩ cô cũng phải kiếm sống thôi. Tôi không rõ nhưng nhiều phóng viên đến đây trò chuyện với tôi rồi sau đó, có những người tôi có ảnh hưởng đến cuộc đời của họ khiến tôi cũng hoảng. Họ có những khó khăn gì, thậm chí về tài chính (vì ngày xưa, tôi nghèo lắm) thì tôi cũng giúp. Cô ở Hà Nội, làm một nơi yên ổn thì còn đỡ. Nhưng nhiều người theo nghề viết lách ở tỉnh nhỏ khổ lắm, chẳng biết bấu víu vào đâu. Tôi giúp được chừng nào thì giúp.

PV: Thú thực trước khi gặp anh, tôi cứ mường tượng anh khác lắm. Trông anh yên bình, chậm rãi quá. Dĩ nhiên về khía cạnh ổn định cuộc sống, nó sẽ tốt cho anh. Nhưng về khía cạnh văn chương, nó sẽ khiến cho bút lực của anh thiếu đi ngọn lửa. Anh có nghĩ vậy không?

- Đương nhiên. Tôi không muốn viết gì nữa. Mọi người vẫn chờ đợi tôi viết, Nhưng nhiều khi tôi không muốn viết mặc dù tôi vẫn có thể viết được. Thực sự tôi không muốn viết.

PV: Anh nói không muốn viết nữa. Vậy tại sao anh lại cứ phải cố gắng viết hai tiểu thuyết Gạ tình lấy điểm và Tiểu Long Nữ. Chưa hết, anh còn tự rêu rao với báo chí là mình tiểu thuyết ba xu. Đó là một bước chuyển mới hay anh tự cảm thấy không thể viết được những tiểu thuyết thực sự nên mới rêu rao như thế để mọi người đỡ gièm pha? Một chiêu tiếp thị tác phẩm?
- Đó cũng là một kiểu đấy. Với lối xuất bản hiện nay, với thị hiếu hiện nay thì họ chỉ xứng đáng đọc tiểu thuyết ba xu thôi! Mà làm sách phải đàng hoàng, phải tử tế chứ. Nguyễn Bính nói: quý sách hơn vàng! Ngày trước người ta làm sách để “đồng nhất nhân tâm trị đạo”. Bậc thánh nhân có đức có tài mới dám làm sách.

Sau này xã hội phát triển, rộng mở, nhiều khi viết sách để kiếm tiền, cũng có khi chỉ để mua vui. Dĩ nhiên là bây giờ sách phong phú hơn, nhưng nó vẫn phải có giá trị đích thực như giải Nobel. Người ta tặng hơn triệu đô không chỉ để trao cho những tác phẩm vớ vẩn. Đó là cách hướng đạo cho các nhà văn trên toàn thế giới, dù nó là hướng đạo của những người thuộc Viện Hàn lâm Thụy Điển. Sở dĩ tôi viết nhảm nhí là vì thế. Tức là tôi cũng chán. Tôi chán nhiều thứ.

PV: Khi người ta nói “tôi chán nhiều thứ”, là anh ta đang chán chính bản thân mình…
- Đúng thế. Tôi cũng đáng chán lắm.

PV: Không hiểu nhà văn Bảo Ninh, sau khi viết xong "Nỗi buồn chiến tranh" có chán như anh không. Bảo Ninh hình như vì chất chứa một nỗi chán chường trong lòng, nên không muốn (hoặc không thể) ra thêm một tiểu thuyết khác. Anh ta không xuất hiện nhiều trên báo chí, ngay cả khi trả lời phỏng vấn cũng rất… chán nản. Cảm giác như Bảo Ninh thích đóng sập cửa trước bạn đọc...
- Bảo Ninh, hắn là người rất hay.

PV: Nhưng tôi ngờ rằng Bảo Ninh vẫn đang sáng tác một tiểu thuyết có cỡ nữa lắm!
- Ai mà chẳng thế. Ai cũng mong muốn viết những cuốn tuyệt hay. Nghề viết văn hay nghề sáng tạo là nghề thổ tả.

PV: Như anh từng viết, nhà văn cũng là ông nông dân đi cày chữ. Trên hành trình đi tới cái chết, họ là những nô lệ phải mang hòn đá khổ ải trên lưng…
- Ai chẳng thế. Đừng nghĩ chỉ có nhà văn. Anh thợ mộc cũng có tảng đá của anh ta. Người làm chính trị hay làm kinh tế cũng thế.

PV: Hòn đá của nhà văn sẽ khác gì so với hòn đá của những người khác? Bởi vì ngoài những khổ ải đến từ bên ngoài, do xã hội đem tới thì họ còn bị dày vò bởi những khổ ải trong tâm hồn?
- Có thể do đặc điểm của nghề nghiệp vì nghề này sống nội tâm nhiều. Nếu không thoát ra được có thể ảo tưởng, bệnh hoạn…

PV: Có bao giờ anh rơi vào trạng thái không thể kiểm soát nổi bản thân? Khi tưởng tượng quá nhiều và sống trong thế giới do chính mình tạo ra?
- Không. Làm gì có chuyện đó. Làm gì có chuyện sống trong thế giới do chính mình tạo ra! Nó không có chuyện ấy đâu. Ai đó có nói thế thì chỉ nói cho oai thôi. Trước hết anh phải sống thật và tự làm phong phú bản thân.

PV: Nguyễn Huy Thiệp của năm 2007 đang ở con đường nào?
- Tôi cũng ở cuối cuộc đời rồi. Đến lúc tôi phải nghỉ rồi. Cũng có thể nhiều người không tin, cả trong nước lẫn ngòai nước. Hôm vừa rồi có một tạp chí của Thụy Sĩ phỏng vấn tôi. Họ cũng hỏi tôi về chuyện này.

PV: Anh nói mình sẽ buông bút không viết nữa?
- Cũng chưa biết.

PV: Tôi nghĩ nếu thực sự không muốn viết nữa, thì chẳng thà anh buông bút như nhà văn Bảo Ninh. Buông cho đến thời điểm mình muốn viết thực sự. Vì văn chương là để phục vụ cho nhu cầu của nội tâm chứ không phải do sức ép kiếm tiền, hoặc sức ép danh vọng.
- Từ trước đến nay tôi vẫn viết nhiều như thế đấy chứ. Chứ có phải viết vì danh vọng đâu?

PV: Nhưng những tiểu thuyết mới của anh thực sự khiến cho nhiều người rất thất vọng.
- (Cười lớn) Kệ họ chứ. Tôi chỉ quan tâm đến tôi thôi. Tôi ích kỷ vậy đấy!

PV: Anh có đọc bài chân dung về Bảo Ninh trên VietTimes không?
- Tôi có đọc. Ông ấy nói cũng thực. Tôi cũng thích Bảo Ninh. Hắn ta nhận xét kinh phết. Tinh tường và tương đối công bằng. Trần Đăng Khoa thì không thế. Trần Đăng Khoa thì tương đối cảm tính.

PV: Nguyễn Huy Thiệp sắc sảo, mạnh mẽ, và ma mị trong truyện ngắn bao nhiêu, thì trong tiểu thuyết lại bạc nhược, rời rạc, tủn mủn bấy nhiêu. Mọi tinh hoa, mọi ngón nghề trong truyện ngắn khi đưa vào tiều thuyết đều biến thành những món ăn rời rạc, không hợp vị.

Có lẽ Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh là hai đối cực điển hình nhất trong việc cực đoan với một loại hình văn học. Thường thì người viết tiểu thuyết viết truyện ngắn không đến nỗi dở lắm, và ngược lại người viết truyện ngắn viết tiểu thuyết cũng có thể đọc được. Thế nhưng với Nguyễn Huy Thiệp, tuy được gọi là “Vua truyện ngắn” thì không thể viết nổi một cuốn tiểu thuyết. Còn Bảo Ninh, dù được nhà văn – nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến nói “chỉ có Bảo Ninh mới biết viết tiểu thuyết”, thì trong truyện ngắn, tự Bảo Ninh nhận xét, anh ta không giỏi viết truyện ngắn. Có cố viết cũng không thể ra truyện được. Thi thoảng Bảo Ninh cũng nhận viết cho báo Tết, nhưng viết trong thế của người vụng về.
- Nó tùy theo quan điểm của từng người thôi. Hồi tôi sang bên Mỹ, tôi cũng đến nơi in sách của Bảo Ninh. Đây cũng là nơi in “Những vần thơ của quỷ sa tăng" của Salman Rushdie.

Xuân Anh (VietTimes)


BTV: Đông Tỉnh