Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Văn chương > Nước ngoài > Julien Gracq (1910-2007)

Nhà văn

Julien Gracq (1910-2007)

Chủ Nhật 13, Tháng Giêng 2008

Năm qua khép lại với một sự kiện. Đó là việc nhà văn Pháp Julien Gracq qua đời ngày 22-12-2007, ở tuổi 97.

Ông sinh ngày 27-7-1910 ở thị trấn nhỏ Saint-Florent-le-Vieil, miền tây Pháp. Cha ông trước làm nghề bánh mì, sau buôn bán hàng xén. Mẹ làm công cho một cửa hàng tạp hoá gần nhà.

Ông tốt nghiệp xuất sắc môn địa lý ở Đại học Sư phạm, học thêm môn lịch sử và năm 1935 được cấp bằng thạc sỹ hai môn này. Năm 1936, ông được bổ nhiệm giáo sư trung học và liên tục giảng dạy lịch sử và địa lý ở nhiều trường trong vùng cho đến khi về hưu năm 1970.

Ông mày mò tranh thủ viết cuốn tiểu thuyết đầu tay Lâu đài Argol. Năm 1938, ông gửi bản thảo đến nhà xuất bản Gallimard, bị từ chối thẳng thừng. Ông bèn thử vận may ở nhà xuất bản nhỏ José Corti. Corti ấn tượng với bức thư mực xanh lá cây, rất hiếm dùng thời đó, ngoại trừ vài cây bút lập dị, chả hạn André Breton. Corti rất mừng, song chưa sẵn tiền để in ngay cuốn sách.

Julien Gracq chấp nhận ứng trước chi phí mà Corti cần. Cuốn sách không được để ý, chỉ bán được 150 bản. Nhưng ai đã chịu khó đọc, thì bị nó đánh gục hoàn toàn. André Breton viết thư ngay cho ông: “Tác phẩm của ông khiến tôi bàng hoàng, vì nó đưa tôi vào một giao hoà cốt tử”. Julien Gracq đội ơn José Corti mãi và suốt đời chỉ công bố sáng tác ở nhà xuất bản ấy.

Năm 1939, ông mặc áo lính khi Chiến tranh thế giới nổ ra. Trải qua nhiều mặt trận, ông bị bắt và đưa đến trại tập trung Silésie năm 1940. Ông để lại cho các bạn cùng cảnh ngộ ấn tượng không phai mờ về một bản lĩnh con người độc nhất vô nhị.

Không phải ngẫu nhiên, trong các nhà văn cổ điển Pháp, ông thích Balzac và Standhal hơn Flaubert. “Sự thật là lẽ sống”, đây là tâm niệm chung của nữ sĩ Doris Lessing và ông vậy.

... Năm 1950, tập tiểu luận Văn chương lì lợm (La Littérature à l’estomac) khuấy động dư luận không chỉ tại Pháp. Nó chế diễu thói đạo đức giả và những “trò lố” trong văn học nói chung và trong các giải thưởng văn chương nói riêng.

Tháng 9-1951, dư luận sôi nổi hơn với Bờ biển Syrtes, tiểu thuyết mới của ông, tuồng như nhẹ nhõm, nhưng nặng trĩu vấn đề. Một trong những vấn đề ấy là sự suy vi của một nền văn minh.

Cuốn sách được công chúng và giới phê bình đón chào nồng nhiệt. Nó được khẳng định tức thời là một kiệt tác và cầm chắc sẽ đoạt giải Goncourt. Không như với các tác phẩm “triển vọng” khác, nhà xuất bản không gửi Bờ biển Syrtes tới các thành viên giám khảo của giải này. Trên tờ Figaro ngày 28-11, Gracq công khai ngỏ ý sẽ không nhận giải. Bất chấp chuyện đó, ngày 3-12, Viện hàn lâm Goncourt vẫn “ngoan cố” đội vương miện cho nó ngay từ vòng phiếu đầu. Nữ văn hào viện sỹ Colette kiêu hãnh oang oang nhắc đi nhắc lại bà nhất quyết chỉ tôn vinh Bờ biển Syrtes.

Một giờ sau, Julien Gracq chính thức tuyên bố từ chối vinh quang mà hầu như mọi cây bút đều mơ ước. “Chuyện tày đình !”- trong nửa thế kỷ, đã kẻ nào dám đỏng đảnh với Goncourt?

Báo chí sôi lên sùng sục. Người chê Gracq “ma mãnh tự quảng cáo qua chiêu bài cẩn trọng”. Kẻ khen ông “lập trường kiên định”. Không tán thành sự “ngạo ngược” của nhà văn, một nhóm thanh niên Paris trù tính bắt cóc Julien Gracq khi ông rời trường Claude-Bernard, nơi ông giảng dạy. May một toán nhà báo đang chờ ông đã giải cứu được ông khỏi cái vạ nực cười.

Ông nổi tiếng kín đáo và kiệm lời. Nhưng ngày 7-12 năm đó, ông lại lên tiếng trên tờ Nghệ thuật. Ông nhấn mạnh rằng sau cùng, nhà văn có quyền đến với công chúng bằng con đường riêng, chứ không nhất thiết bằng quảng cáo. Và rằng ông thuộc các độc giả không mua các ấn phẩm đoạt Goncourt mười năm rồi.

Sự báng bổ hơn nửa thế kỷ trước của Gracq đã được phụ hoạ ngoạn mục và xác nhận hóm hỉnh năm 2007. Luật lệ của không chỉ Goncourt mà của nhiều giải văn chương hàng đầu lần đầu tiên bị vi phạm trắng trợn. Bỏ phiếu cho tác phẩm không còn hay không có trong danh sách xét thưởng, việc trao tặng giải 2007 biến thành trò đùa ác ý và thâm độc.

Văn chương thứ thiệt tự đi bằng đôi chân của mình. Vấn đề là làm sao cho nó không bị lung lạc, áp đảo và hù doạ. Đó là ý nguyện của Julien Gracq và Doris Lessing, giải Nobel văn chương 2007 “được cân nhắc kỹ lưỡng nhất từ xưa tới giờ”…

Từ Bình Tâm (TP)

Theo Liberation, AFP, Cyberpresse, Showbiz.News...

TÁC PHẨM

* Au château d’Argol, tiểu thuyết (1938)

* Un beau ténébreux, tiểu thuyết (1945)

* Liberté grande, thơ (1946)

* André Breton, quelques aspects de l’écrivain, biên khảo (1948)

* Le Roi pêcheur, kịch (1948)

* La Littérature à l’estomac, tiểu luận (1950)

* Le Rivage des Syrtes, tiểu thuyết (1951) : giải Goncourt, bị tác giả không nhận.

* Prose pour l’étrangère, chỉ in 63 bản, HC (1952)

* Un balcon en forêt, tiểu thuyết (1958)

* Préférences, biên khảo (1961) : trở lại La Littérature à l’estomac

* Lettrines I, « ghi chép » (1967)

* La Presqu’île, truyện ngắn (1970)

* Lettrines II, « ghi chép » (1974)

* Les Eaux étroites, chuyện kể (1976)

* En lisant en écrivant, « ghi chép » (1980)

* La Forme d’une ville, biên khảo (1985)

* Autour des sept collines, « ghi chép » (1988)

* Carnets du grand chemin, « ghi chép » (1992)

* Entretiens, tuyển tập trả lời các phỏng vấn (2002)