HỒ SƠ TƯ LIỆU VỀ PHÁT XÍT NHẬT (kỳ 5)

Nước Nhật đứng trước bom nguyên tử

TP Hiroshima bị bom nguyên tử san phẳng
Xem kỳ trước

THẢM HỌA HIROSHIMA

Sau những tổn thất lớn ban đầu và bị Nhật chiếm mất nhiều cứ điểm quan trọng ở Thái Bình Dương, Mỹ đã ra sức tăng cường lực lượng binh lính và trang bị vũ khí. Chi phí quân sự từ 4,5 tỷ USD năm 1941 tăng lên 20 tỷ năm 1942 và 38 tỷ USD năm 1943, hơn hẳn Nhật (2,0; 3,0; 4,5 tỷ USD). Số lượng và chất lượng các loại vũ khí Mỹ đều tăng vượt bậc. Năm 1944, Mỹ sản xuất được hơn 35 nghìn máy bay, so với 11 nghìn của Nhật. Nhờ đó lực lượng Mỹ dần dần chiếm ưu thế và từ cuối 1943 bắt đầu giành được quyền chủ động. Từ 1944, Mỹ phản công toàn diện, chiếm lại quần đảo Marianna, các đảo Saipan, Guam, Tinian; máy bay Mỹ từ TQ bay đến ném bom đất Nhật, phá huỷ các cơ sở sản xuất và căn cứ quân sự khiến cho Nhật ngày càng thiếu vũ khí, trang bị.

Bộ Thống soái Nhật quyết định áp dụng chiến thuật đánh bom tự sát bằng máy bay, tầu ngầm bỏ túi và ngư lôi người lái. Chiến thuật mới này đã gây khó khăn và thiệt hại lớn cho Mỹ, nhưng cũng rất bất lợi cho Nhật vì mất gần hết phi công giỏi, trong khi Nhật đang thiếu phi công và việc đào tạo 1 phi công lâu hơn việc chế tạo 1 máy bay. Trong trận đảo Okinawa, 193 máy bay cảm tử Kamikaze Nhật tấn công hạm đội Mỹ, có 169 chiếc bị pháo phòng không và máy bay Mỹ bắn rơi, chỉ còn vài chục chiếc lao trúng mục tiêu. Tổng cộng đã có hơn 2200 phi công Kamikaze chết, đây là một thiệt hại không thể bù đắp được, nhờ đó máy bay Mỹ càng tự do khống chế bầu trời, máy bay Nhật hầu như không thể cất cánh được. Ngày ngày, hàng nghìn máy bay Mỹ tung hoành trên bầu trời Nhật, ném bom rải thảm (chủ yếu là bom cháy) gây thiệt hại nặng nề cho Nhật, hầu hết các đô thị Nhật chỉ còn là đống tro tàn.

Phi công Kamikaze

Ngày 7 tháng 5 năm 1945, nước Đức phát xít đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Châu Âu im tiếng súng. Nhưng ở châu Á -Thái Bình Dương, phát xít Nhật vẫn điên cuồng chống trả Đồng Minh. Tháng 6, Nội các Nhật họp, phái chủ chiến chiếm đa số vẫn quyết tâm “Bản thổ quyết chiến”, “chiến đấu đến người Nhật cuối cùng”. Thiên Hoàng Hirohito im lặng trước quyết định đó.

Lúc này đảo Okinawa cách đất liền 350 dặm đã bị Mỹ chiếm. Trên đất Nhật, 2,25 triệu lục quân và 1,25 triệu hải quân chủ yếu lo cố thủ trước tin Mỹ sắp đổ bộ vào Nhật. Ngoài ra còn khoảng 3,5 triệu quân Nhật đóng ở Trung Quốc, các nước Đông Nam Á và một số đảo trên Thái Bình Dương.

Ngày 16 tháng 7 năm 1945, Mỹ thử thành công bom nguyên tử. Hôm sau, Truman, Churchill và Stalin hội đàm tại Potsdam gần Berlin để bàn về tương lai nước Đức. Đồng thời, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ J.C. Gore và Bộ trưởng Lục quân H.L. Stimson dự thảo Tuyên ngôn Potsdam về vấn đề ép Nhật đầu hàng vô điều kiện để chuẩn bị trình nguyên thủ Mỹ, Anh, Trung Quốc ký (về sau Liên Xô cũng ký Tuyên ngôn này).

Ngay từ tháng 5, Gore đã kiến nghị với TT Truman là chỉ cần Tuyên ngôn này đưa ra tiền đề Nhật có thể giữ lại chế độ Thiên Hoàng, thì chắc chắn Nhật sẽ chấp nhận đầu hàng ngay. Thế nhưng hồi ấy dư luận Mỹ và đa số quan chức trong Chính phủ Mỹ đều đòi đưa Thiên Hoàng ra xét xử tội ác chiến tranh, phản đối giữ lại chế độ Thiên Hoàng. Stimson đành đề nghị Truman dùng hình thức phi chính thức để truyền đạt cho phía Nhật biết ý định nói trên của Mỹ.

Ngày 26 tháng 7, Tuyên ngôn Potsdam chính thức công bố. Máy bay Mỹ thả xuống khắp đất Nhật hàng triệu tờ truyền đơn in Tuyên ngôn này bằng tiếng Nhật. Điều 13 của Tuyên ngôn viết: “Chính phủ Nhật phải tuyên bố toàn bộ quân đội Nhật lập tức đầu hàng vô điều kiện”, “Bất cứ sự lựa chọn nào khác đều chỉ có thể dẫn đến sự huỷ diệt nhanh chóng và toàn diện của nước Nhật”. Sakomizu, Bí thư trưởng Chính phủ Nhật nhớ lại tình hình lúc ấy:

"Nhà đương cục phía ta thận trọng nghiên cứu từng câu từng chữ của Tuyên ngôn này, và tôi xin nói thẳng ra là lúc ấy đã đi đến kết luận ta chỉ có thể dùng nó để làm cơ sở chấm dứt chiến tranh, ngoài ra không còn cách nào khác. Bộ trưởng ngoại giao còn bàn chuyện phải chăng hội nghị Chính phủ nên thừa nhận như vậy... Thế nhưng Bộ trưởng Lục quân lại chủ trương “Ta đang nhờ Liên Xô làm trung gian để điều đình (với Mỹ), nay đang chờ trả lời, do đó nên chờ bao giờ có hồi âm thì hãy quyết định làm gì.” Thế là mọi người quyết định chờ đợi, nói cách khác, trước khi có hồi âm thì ta không tỏ thái độ gì về bản Truyên ngôn này." (sách “Sự thật của việc ngừng chiến”, 1989. Viết tắt Sđd1)

Quả thật, từ đầu tháng 7, Chính phủ Nhật đã nhờ Liên Xô làm trung gian điều đình để hoà giải với Mỹ, dựa trên cơ sở Hiệp ước Trung lập Nhật-Xô (ký 13.4.1941) đến 3.1946 mới hết hạn. Thiên Hoàng Hirohito nhớ lại:

"Sở dĩ phải chọn Liên Xô làm trung gian là vì các nước khác đều yếu, nếu có đứng ra điều đình thì cũng bị Mỹ, Anh áp chế, do đó dẫn đến việc đầu hàng vô điều kiện bất lợi. Liên Xô vừa có thực lực lại có tình nghĩa ký hiệp ước trung lập với ta. Tóm lại có 2 lý do như vậy... Thế nhưng rất khó nhận định Liên Xô là một nước có thành ý, bởi thế trước tiên phải thăm dò thực hư. Chúng tôi quyết định triển khai cuộc hội đàm Koki Hirota (cựu Bộ trưởng ngoại giao) với Yakov A. Malik (Đại sứ Liên Xô tại Nhật) với nội dung: chỉ cần họ chịu xuất khẩu dầu mỏ cho ta thì cho dù ta phải biếu đảo Nam Kurin và Mãn châu cho họ cũng được... Thế nhưng cho tới thượng tuần tháng 7, phía Liên Xô vẫn bặt vô âm tín. Mà tôi thì cần phải làm xong các việc liên quan trước khi hội nghị Potsdam bắt đầu, nếu để chậm trễ thì sẽ rất bị động. Thế là tôi bàn với Suzuki (Thủ tướng Nhật), quyết định chấm dứt cuộc hội đàm Hirota-Malik mà trực tiếp giao thiệp với Chính phủ Liên Xô. Việc này liên quan đến chuyện cử ai đi Moscow. Về đại thể đã kết luận Konoe (cựu Thủ tướng) là thích hợp, nhưng sợ Konoe không nhận, nên tôi quyết định trực tiếp gặp ông ta nói chuyện... Đầu tháng 7 tôi gọi Konoe đến và nói với ông ta là nhiệm vụ này khó khăn đấy, nhưng đề nghị ông nhất định phải gắng hết sức mà làm. Konoe nói dù phải chết cũng làm và nhận quyết định ấy." (“Tự bạch của Thiên Hoàng Showa”, 1995. Sđd2)

Việc cử người đi Liên Xô bị đình lại vì ngày 9.7, các đại thần Arita và Kido đề nghị nhà vua nên trực tiếp giảng hoà với Mỹ, Anh. Nhưng Hirohito vẫn cố chấp nhờ Liên Xô môi giới điều đình, cho nên cho tới ngày 26 tháng 7, Bộ trưởng Lục quân Anami đã mượn cớ nhà vua có chủ trương như vậy để cố ý trì hoãn việc chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam. Thật ra, sau khi thấy Đức đầu hàng và Liên Xô tập kết quân đội sang Viễn Đông, Anami cho rằng việc nhờ Liên Xô làm môi giới đàm phán với Mỹ, Anh cũng là một thượng sách để tránh chạm trán với Liên Xô. Dưới sức ép của nhà vua và quân đội, Thủ tướng Suzuki đã không trả lời yêu cầu của Tuyên ngôn Potsdam.

Ba vật thiêng của Hoàng tộc Nhật Bản

Theo giáo sư Komori ở đại học Tokyo, lý do chủ yếu nhất của việc trì hoãn chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam là Thiên Hoàng Hirohito chỉ lo làm sao “giữ được thể chế Thiên Hoàng” (“quốc thể”) và giữ được “3 vật thiêng” của Hoàng tộc. 3 vật thiêng đó là: một tấm Gương Bát Xích (vật tượng trưng cho tinh thần của Hoàng tộc, được thờ ở đền Ise), một thanh Thảo Thế Kiếm (tức gươm trừ cỏ, còn gọi Thiên Tùng Vân Kiếm) và một viên Ngọc Bát Xích Quỳnh Câu thờ ở 2 ngôi đền khác. Đây là 3 vật báu có tính thần thoại của Nữ thần Mặt Trời Amaterasu, tổ tiên dân tộc Nhật Bản. Thiên Hoàng lo các vật thiêng này bị phá mất, vì hôm 24 tháng 7, bom Mỹ suýt rơi trúng đền Ise.

Cố vấn của nhà vua là Koichi Kido nhớ lại ông đã “tấu” lên Thiên Hoàng như sau:
"Hiện nay phía quân đội đề xuất “bản thổ quyết chiến”, kêu gọi đánh một trận quyết chiến thật lớn để xoay chuyển tình hình, nhưng theo kinh nghiệm thời gian qua, mọi người khó có thể tin vào chủ trương này. Nếu trận này thất bại, kẻ địch sẽ nhảy dù xuống khắp nước, Bộ Thống soái tối cao sẽ bị bắt làm tù binh. Cho nên vấn đề cần thận trọng xem xét hiện nay là làm gì để giữ gìn chu toàn 3 vật báu. Nếu không, sẽ để mất biểu tượng Hoàng tộc 2600 năm nay, cuối cùng thể chế Thiên Hoàng cũng khó có thể giữ được. Cho nên thần tin rằng việc hoà giải là nhiệm vụ cấp bách hiện nay." (“Nhật ký của Kido”, 1966. Sđd3)

Ngày 31.7, nhà vua nói với Kido:
"Sau khi cân nhắc nhiều mặt, cuối cùng Trẫm cho rằng vẫn cứ nên chuyển các vật thiêng về bên cạnh Trẫm. Có điều, khi ta động đến các báu vật ấy tất sẽ ảnh hưởng đến lòng người. Cho nên Trẫm nghĩ là cứ nên thận trọng thì hơn. Ngày nào Trẫm cũng nghĩ đến việc nếu chỉ dựa vào chủ ý của một mình Trẫm mà động đến các vật thiêng ấy thì hậu quả sẽ ra sao? Cho nên Trẫm đang nghĩ, nên chuẩn bị thế nào về tinh thần để có thể làm tốt việc di chuyển các vật ấy đến Shinsu (một vùng núi thuộc huyện Nagano). Việc này mong ngươi bàn kỹ với Chánh văn phòng Hoàng cung. Cũng nên bàn với Chính phủ rồi hãy quyết định. Trầm nghĩ: nếu có gì bất trắc thì Trẫm đành kiên trì bảo vệ và cùng sống cùng chết với các vật thiêng ấy." (Sđd3)

Đến lúc này, một tuần đã qua mà không thấy phía Nhật có phản ứng gì về Tuyên ngôn Potsdam, Tổng thống (TT) Truman vô cùng đau đầu. Ông muốn Nhật đầu hàng nhưng lại do dự chưa dám đổ quân lên đất Nhật, cho dù lúc này hàng nghìn tầu chiến và cả triệu lính Mỹ đã sẵn sàng. Truman biết rõ đánh từ biển lên đất liền sẽ bị thương vong cực nhiều và chưa biết bao giờ mới thắng nổi 3,5 triệu quân Nhật cố thủ trong các công sự ngầm trên 4 đảo chính của nước này, chưa kể cùng từng ấy quân Nhật đóng ở các nước châu Á và các đảo Thái Bình Dương. Trận đổ bộ đảo Iwo Jima nhỏ tý đầu năm nay, quân số Mỹ gấp 3 Nhật, thế mà cũng mất gần 40 ngày mới chiếm được đảo, 21 nghìn lính Nhật đánh đến chết gần hết, chỉ còn lại 1038 thương binh; Mỹ thương vong 31 nghìn người. Trận đánh đảo Okinawa vừa qua, với ưu thế tuyệt đối 183 nghìn lính, 1500 tầu chiến mà cũng mất 2 tháng Mỹ mới chiếm được; máy bay tự sát của Nhật lao vào tầu chiến Mỹ, lính Nhật đánh đến chết không hàng; Mỹ thương vong 48 nghìn quân. Phương án “Chiến dịch Coronet” tấn công chính quốc Nhật Bản do Bộ Tham mưu Liên quân Mỹ dự thảo ước tính thương vong phía Mỹ sẽ là 1,2 triệu người. Truman biết rằng nhân dân Mỹ không bao giờ cho phép hy sinh con em họ nhiều như vậy. Cuối cùng TT Mỹ đã chọn cách dùng bom nguyên tử với hy vọng Mỹ không cần dùng bộ binh mà vẫn buộc Nhật phải đầu hàng.

8h15 sáng ngày 6 tháng 8, chiếc máy bay ném bom kiểu B-29 có tên Enola Gay từ độ cao 10 nghìn mét thả một quả bom Urani 235 xuống Hiroshima, nơi có trụ sở Bộ Tư lệnh miền Nam và nhiều nhà máy quân sự Nhật. Phần lớn thành phố bị tiêu hủy. Hơn 200 nghìn dân bị chết. TT Truman ra tuyên bố nói Mỹ đã ném bom nguyên tử xuống Hiroshima.

Thủ tướng Suzuki nhớ lại: "Sự việc đã đến nước này, tôi đành quyết định: không còn cách nào khác, chỉ còn cách duy nhất là chấm dứt chiến tranh. Sau khi nghe tin thảm hoạ ở Hiroshima, cuối cùng Đức Vua thở dài nói: nếu cứ tiếp tục cuộc chiến tranh không có hy vọng thắng lợi này thì sẽ chỉ gia tăng sự hy sinh của quân đội, đây là một việc bi thảm trong lịch sử văn minh của nhân loại. Tôi và mọi người đau khổ nhận thấy tâm trạng của Đức Vua vô cùng nặng nề..... Thế nhưng Chính phủ vẫn ra lệnh tổng động viên các nhà khoa học quân đội, đốc thúc họ đến Hiroshima điều tra thực địa, xác nhận bom nguyên tử là thật hay giả. Ngày 8 tháng 8, sự thật đã rõ: đúng là bom nguyên tử thật. Do đó ai nấy càng lo sợ uy lực của nó." (“Tự truyện của Suzuki”, 1966. Sđd4)


Khi biết tin ấy, Thiên Hoàng thở dài : “Nếu cứ tiếp tục cuộc chiến tranh không có hy vọng thắng lợi này thì sẽ chỉ làm tăng sự hy sinh của quân đội, đây là một việc đau lòng trong lịch sử văn minh của loài người.” (Sđd4) Thực ra, nhà vua chỉ lo cho số phận của mấy triệu lính Nhật còn lại lúc ấy chứ đâu có nghĩ gì đến sinh mạng dân chúng! Chính phủ Nhật lúc đầu còn chưa tin Mỹ có bom nguyên tử. Sáng hôm sau họ cử các nhà khoa học đến Hiroshima khảo sát.

"Trên thực tế, sự xuất hiện bom nguyên tử hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của mọi người. Có người nghi ngờ đó là trò lừa bịp của Mỹ, đề nghị trước tiên nên đến điều tra tại chỗ rồi hãy nói... Tối ngày 8, tiến sĩ Niko nước mắt ròng ròng báo cáo tôi: “Rất tiếc, đúng là bom nguyên tử”.... Nhận được báo cáo, Thủ tướng Suzuki chỉ thị tôi sáng mai họp ngay Nội các, ông sẽ tự nói ra ý định chấm dứt chiến tranh." (Sđd1)

Nhưng phái chủ chiến lại nêu ý kiến: Mỹ chỉ có một quả bom nguyên tử thôi, không có gì đáng sợ cả!

6 giờ sáng hôm sau, lại có tin Liên Xô đã tuyên chiến chống Nhật. 11 giờ 2 phút, quả bom nguyên tử thứ 2 (dùng Plutoni) rơi xuống Nagasaki. Khoảng 120 nghìn người chết. Tổng cộng hơn 300 nghìn dân Nhật bỏ mạng chỉ vì Chính phủ chần chừ chưa tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam với lý do “chưa dự kiến đầy đủ” tình hình.

Việc Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử và Liên Xô tham chiến chống Nhật đều được giải thích bằng lý do “Nhật từ chối tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam”. Chính phủ Nhật đã chần chừ, chậm trễ. Tất cả chỉ vì họ muốn giữ bằng được chế độ Thiên Hoàng họ coi là thiêng liêng bất khả xâm phạm! Điều 1 Hiến pháp Minh Trị 1889 viết: “Đế quốc Đại Nhật Bản là một khối thống nhất do Thiên Hoàng cai trị”. Điều 3: “Thiên Hoàng thiêng liêng bất khả xâm phạm”, và điều 4: “Thiên Hoàng là nguyên thủ đất nước, nắm toàn bộ quyền thống trị”. Vì thế mà họ chỉ lo giữ “quốc thể” (thể chế Thiên Hoàng).

Nguyễn Hải Hoành
Xem tiếp kỳ sau