Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Lịch sử > Cổ đại > Về cái gọi là "...những phát hiện lịch sử chấn động"

Về cái gọi là "...những phát hiện lịch sử chấn động"

Nguyễn Việt

Thứ Tư 12, Tháng Ba 2008

Về những quan điểm nêu trong loạt bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động đăng 7 kỳ trên báo Thanh Niên từ ngày 26/2 đến ngày 6/3/2008, chúng tôi đăng tải ý kiến của TS Nguyễn Việt, GĐ Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á viết theo đề nghị của TTXVN. Vì khuôn khổ có hạn, xin được lược đăng bài viết dài gần 5000 từ này.

Cùng tác giả: Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử?

1. Có thể thiền sư Lê Mạnh Thát (LMT) đã có những phát hiện có giá trị cao về tư liệu lịch sử

a. Thiền sư LMT có thể là một nhà nghiên cứu Phật giáo uyên bác. Ông đã có điều kiện và đã dành rất nhiều công sức để khai thác từ những tàng thư kinh Phật và sách sử liên quan đến kinh Phật. Quả thực, đây là một loại hình tư liệu có liên quan đến lịch sử văn hóa dân tộc nhưng không dễ khai thác đối với các nhà khoa học ngoại đạo.

Chúng ta đều biết rằng nhà chùa và nhà thờ trong một thời gian dài dưới thời trung cổ luôn là những trung tâm văn hóa, giáo dục kiến thức khoa học. Rất nhiều nơi trên thế giới, các trường đại học đầu tiên ra đời từ các trung tâm tôn giáo như vậy. Trong hệ thống này, từ rất sớm đã có những kho lưu trữ, tàng thư, thư viện và những nhà tri thức uyên bác.

Vì vậy, tôi trân trọng và đánh giá cao một số phát hiện của thiền sư LMT, ví dụ cuốn Lục độ tập kinh, sáu lá thư hồi đầu công nguyên, một số văn cảo, thơ ca do các nhà sư Việt Nam trước tác... Chắc chắn tới đây tôi và nhiều đồng nghiệp khác sẽ mong muốn được tiếp cận tìm hiểu những tư liệu mới này.

b. Có nên chăng vì những phát hiện cá nhân về sử liệu mà xúc phạm các bậc tiền nhân? Không hiểu những hành vi của thiền sư được nhà báo viết trong bài có đúng sự thật không, như việc bức xúc nổi xung trước nhà sử học Ngô Sĩ Liên, chê cười một cách quá dễ dãi đối với nhà bác học Lê Quý Đôn hoặc trở nên thái quá với Triệu Đà, An Dương Vương.

Thật vội vàng và khó tiếp thu quá. Đó là chưa kể, khi đi vào thảo luận học thuật, chưa chắc thiền sư LMT đã hiểu đúng bản ý của sử gia Ngô Sĩ Liên. Những lầm lẫn của nhà bác học Lê Quý Đôn khi dẫn chép lại các sách sử xưa cũng đã được phát hiện không phải là ít, chính vì vậy mới có công tác hiệu đính, bổ sung văn bản.

Những nhầm lẫn như vậy trong khoa học cũng như trong sách sử kể ra thì nhiều lắm. Nhưng ngay cả những nhà hiệu đính văn bản cổ vào hạng bậc thầy như các giáo sư Đào Duy Anh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng... khi phát hiện những sai sót cũng chưa bao giờ dám dùng đến từ “khốn nạn” trên mặt báo để trách cứ, phê phán tiền nhân.

c. Phải thừa nhận rằng bằng trí tuệ thông thái và lòng ham mê tra cứu, thiền sử LMT sẽ còn mang lại nhiều phát hiện mới về sử liệu và văn học có giá trị cho Phật học và Khoa học nhân văn Việt Nam nói chung. Rõ ràng, trong phạm vi Phật học, chắc chắn thiền sư là một chuyên gia rất đáng kính nể. Tuy nhiên, không mấy khó khăn để nhận ra ông không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp.

Ông suy diễn chữ “Việt luật” trong tờ tấu của Mã Viện là bộ luật “thành văn” để chứng minh sự tồn tại một bộ máy nhà nước của người Việt đã có những văn bản pháp luật viết bằng chữ Việt cổ (TN 28/2/2008). Theo tôi, “Việt” là một phạm trù tộc danh rất rộng chỉ chung những nhóm tộc người khác Hoa Hạ ở phía Nam sông Giang Thủy (Trường Giang). Bản thân chữ Việt không bao hàm nghĩa quốc gia, nhà nước.

Và khi người Hán (tên gọi người Hoa Hạ dưới thời nhà Hán) chinh phục miền đất phía Nam của người Việt nhận thấy phong tục của người Việt khác phong tục của người Hán khó cho việc cai trị nên mới xuất hiện bản tấu của Mã Viện. “Luật” ở đây nên hiểu là “luật tục” như từ ngữ mà chúng ta hiện dùng cho các quy ước xã hội trong các vùng dân tộc thiểu số nước ta. Nhiều nhà khoa học nước ta cũng như các học giả trên thế giới rất muốn chứng minh tính chất nhà nước của xã hội Hùng Vương, nhưng chưa ai dám dùng “Việt luật” trong bản tấu của Mã Viện để làm bằng chứng như thiền sư cả.

Bởi không ai chứng minh được “Việt luật” trong tấu chương đó là một quyển sách có chữ viết thể hiện cho cuốn luật của một nhà nước. Khi minh chứng nước ta không bị nhà Tây Hán đô hộ sau khi họ chinh phục được nước Nam Việt của Triệu Đà, ông đã sử dụng phương pháp loại trừ “Phiên Ngung” không thể coi như “nơi đô hội” bằng cách chia bình quân số nhân khẩu của quận Nam Hải ra cho 6 huyện để tự áp cho Phiên Ngung - từng là thủ phủ của nước Nam Việt, một con số trung bình (15 ngàn người) để so với các huyện của Giao Chỉ trung bình lên đến 75 ngàn người.

Từ đó suy ra Giao Chỉ không thuộc Tây Hán (TN 3/3/2008). Hình như ông đã không tham khảo các công trình nghiên cứu về Lịch sử nhân khẩu học và Lịch sử địa lý Trung Quốc và cũng cố tình không để ý đến ngụ ý Phiên Ngung thành trấn (“đô hội”) chứ không phải cả một vùng Phiên Ngung huyện.

Nếu biết rằng trong toàn quận Nam Hải lúc đó có 94.253 khẩu nhưng mật độ dân số trung bình chỉ đạt dưới 1 người trên 1km2, thì con số tập trung ở Phiên Ngung thành trấn phải lên tới hàng chục ngàn người cư trú quanh một thành trì tương tự như quy mô thành Lũng Khê (Bắc Ninh) mỗi bề chừng 2km mà khảo cổ học đã khai quật nhiều lần. Người ta cũng đã khai quật được hàng ngàn mộ Hán tập trung tại thành Phiên Ngung này. Trong tương quan dân số đương thời, đó thực sự là một “nơi đô hội”.

Khi gắng tìm về chữ viết của người Việt thời Hùng Vương, thiền sư dẫn ra một ngôi mộ gạch người Pháp đào được ở Bắc Ninh hồi đầu thế kỷ trước có chữ kiểu Hán ghi trên gốm mà người Hán không đọc được. Theo tôi, không phải chữ Hán nào người Hán cũng đọc được - vì thế mới có ngành giáp cốt, minh văn học. Suy luận rằng chữ mà người Hán không đọc được là chữ Việt thì cũng là hơi vội vàng.

Dạng chữ giống chữ Phạn cổ thường được in trên gạch mộ Hán đương thời nhiều khi người Hán không đọc được đã đành, thậm chí những chuyên gia chữ Phạn cũng chỉ đoán mà thôi, bởi người thợ làm gạch không biết chữ đôi khi đã vẽ lên theo kiểu làm dáng. Hiện tại tôi đang giữ một viên gạch như vậy khai quật trong một mộ Hán ở Sông Khoai (Yên Hưng, Quảng Ninh). Đến tận đời nhà Minh, Thanh, khi vẽ chữ lên gốm, nhiều người thợ Trung Hoa ít chữ vẫn chỉ vẽ “tạo dáng” chữ Hán khiến chúng ta chỉ có thể đoán định dựa vào mẫu những chữ đã biết.

Khảo sát những chữ Hán 100% được khắc trên các đồ đồng Đông Sơn vừa qua, trên một số trống đồng, thạp đồng, trong số gần 50 chữ, có vài ba chữ các chuyên gia cũng chưa đọc được, không thể đoán những chữ đó là chữ Việt được. Thứ hai, mộ gạch Hán chỉ xuất hiện ở Việt Nam lác đác vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên. Những mộ gạch đào được ở Bắc Ninh, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Hải Dương đa phần thuộc thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, chịu ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa thời Đông Hán.

Chữ trên gạch và gốm tùy táng đều là chữ Hán và có thể đọc được. Chúng tôi đang có trong tay hàng trăm chữ dạng như vậy. Hiện tượng “Việt ca” được Lưu Hướng chép lại trong Thuyết Uyển thời Tây Hán muộn (thế kỷ 1 trước Công nguyên) quả là một tư liệu rất quý, nó đã được rất nhiều người nghiên cứu tiếp sau Quách Mạt Nhược.

Lưu Hướng đã kể lại câu chuyện một viên quan người Hồ Bắc (nước Sở) đi chơi thuyền với một hoàng tử con thứ ba của vua Sở Công Vương (590 - 560 trước Công nguyên) đã ghi lại lời ca của người chèo thuyền tộc người Bangxie vốn là một nhánh của người Việt cổ ở vùng này. Đó là trường hợp hiếm có còn lưu lại ngữ âm Việt cổ được chép lại bằng chữ Hán. Có thể ban đầu nó đã được ghi lại bằng chữ Sở (?) hoặc được truyền khẩu rồi mới được dịch ra chữ Hán vào thời Lưu Hướng.

Tôi tin rằng với tầm học rộng, uyên thâm của mình, thiền sư LMT sẽ có những phát hiện thú vị khi ông đã dày công nghiên cứu Việt ca. Gần đây, Wei Qingwen đã khảo cứu kỹ Việt ca trong công trình: Bàn về ngôn ngữ của người Bách Việt, trong đó ông đã phát hiện sự gần gũi của ngữ âm trong Việt ca với ngữ âm của người Việt vùng Giang Hán và đi đến kết luận đó là bài ca của người Việt vùng Giang Hán, tổ tiên của người Choang và Thái hiện nay.

Bài Việt ca này cũng đã được dịch. Việt ca sẽ giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu tộc Việt chung mà Lạc Việt chỉ là một bộ phận ở về phía Đông Nam của khối lớn đó, nhưng nó hoàn toàn không liên quan trực tiếp với nhà nước Hùng Vương, không là một cơ sở quan trọng để minh chứng cho nền văn hiến Hùng Vương: “Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!” (TN 3/3/2008). Không biết thiền sư có được đọc những dòng này trước khi đăng báo hay không?

2. Tư liệu lịch sử và sự thực lịch sử

Đã là nhà sử học thật sự ai cũng biết giữa tư liệu lịch sử và sự thật lịch sử bao giờ cũng có một khoảng cách. Vì vậy, mới cần có “nghiên cứu lịch sử”. Chính thiền sư LMT cũng cảm nhận như vậy khi ông mổ xẻ phê phán sử liệu Ngô Sĩ Liên, thậm chí cả Hậu Hán Thư... Ông cũng đã phát hiện ra các khoảng trống trong tư liệu lịch sử thành văn về hiện tượng Âu Lạc và An Dương Vương đồng thời giả thuyết hiện tượng Phật thoại hóa quan hệ Hùng Thục qua hình tượng các vị thần trong thần thoại Ấn Độ từ tư liệu trong Lục Độ tập kinh xuất hiện vào thế kỷ 2 sau Công nguyên.

Tuy nhiên, theo kể lể của nhà báo, thì thấy ông đã bám rất sát và gần như không dám phê phán nguồn tư liệu của bộ kinh Phật này. Thực tế, mọi cuốn sử cổ đều có một tỷ lệ rất cao là ghi chép lại những sự kiện được lưu truyền lại trong dân gian. Ngay cả Sử ký của Tư Mã Thiên cũng vậy. Sự gần gũi của những ghi chép đó với sự thực là bao nhiêu tùy thuộc vào hiểu biết và phân tích của nhà chép sử lúc đó.

Vì vậy, sách sử ghi chép về những thời xa xưa chỉ phản ánh một lịch sử truyền miệng dưới dạng sử thi, mo, then... chúng chỉ có giá trị tham khảo. Tư liệu khảo cổ học đương đại đối với những thời xa xưa như vậy mang ý nghĩa quyết định hơn nhiều. Chúng ta có thể thừa nhận, Lục độ tập kinh là một văn bản cổ rất có giá trị. Nhưng nó không đại diện và thay thế được lịch sử. Những nhà truyền đạo đương thời đã ghi chép lại những sự tích xảy ra từ vài trăm năm trước, thậm chí cả truyền thuyết hoang đường (truyện trăm trứng có ở nhiều dân tộc Đông Nam Á) dưới dạng huyền thoại.

Chẳng lẽ chỉ dựa vào đó và sự không ghi chép trong một số sách sử như Sử ký, Hậu Hán thư để hô hào: “Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi nước ta” (TN 28/2/2008). Chúng ta nghĩ sao về kết quả các cuộc khai quật và các hội thảo khoa học gần đây nhất tại Cổ Loa?

Nghĩ sao về phát hiện trống đồng Đông Sơn ở Cổ Loa và cả đồ đồng, đồ gốm đào được ở Quảng Châu thời Hán đều có khắc tên huyện Tây Vu mà thủ lĩnh là con cháu Thục Phán An Dương Vương? Tại sao lại có đền An Dương Vương ở Cổ Loa (Hà Nội), Sầm Sơn (Thanh Hóa)..., đền Triệu Đà ở Văn Giang (Hưng Yên), Đồng Xâm (Thái Bình)? Việc khẳng định và làm rõ những điều đó cũng không phải là dễ, nhưng sao lại dễ dàng đến như vậy, khi chỉ bằng chừng ấy chứng cớ để “dứt khoát loại bỏ” An Dương Vương và Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta?

Thực ra, nhiều nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới cũng như ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều nhận ra rằng vào thời kỳ trước Công nguyên, ý thức dân tộc chủ nghĩa còn rất mờ nhạt. Mọi cuộc tranh chấp diễn ra lúc đó bị chi phối nặng hơn bởi những vấn đề kinh tế. Triệu Đà tuy là người Hoa Hạ, lại là quan nhà Tần, nhưng khi xuống làm huyện úy ở Nam Hải đã hòa nhập với người Việt và chủ trương cùng Nhâm Ngao cát cứ không chịu nhập vào nhà Hán ở phía Bắc.

Đền thờ Triệu Đà ở Đồng Xâm (Thái Bình) ghi nhận quê hương của vợ Nam Việt Vương Triệu Đà là người Việt ở đó. Rất nhiều thương nhân, thợ thủ công họ Lý, họ Hoàng, họ Trần... vốn đã khắc tên mình trên các vật phẩm đương thời (đồ gốm, đồ đồng) mà khảo cổ học đã tìm được phân bố ở cả Nam Hải và Giao Chỉ, Cửu Chân, đã tự biến mình thành người Giao, người Việt (Lý Ông Trọng và sau này Lý Bôn, Trần Lãm...).

Họ đã cùng người Việt tạo dựng một tổ quốc mới, một tổ quốc chung đa tộc như hiện nay chúng ta đang có. Những đụng độ nếu có giữa Thục Phán (Tục Pắn tiếng Tày cổ là “người tài giỏi”) với Pò Khun “Hùng” (tiếng Tày cổ và Việt Mường cổ là “cha lớn”, “thủ lĩnh”) là những đụng độ để đi đến sáp nhập Tây Âu với Lạc Việt trước sức ép của Nam Việt - đó là những vấn đề trong nội bộ những người Việt ở Nam Ngũ Lĩnh.

Mộ của chủ nhân Đông Sơn đào ở Kiệt Thượng (Hải Dương) và Việt Khê (Hải Phòng) có rất nhiều đồ giống trong mộ La Bạc Loan (huyện Quý, Quảng Tây, Trung Quốc) trong phạm vi nước Nam Việt. Trái lại vua Nam Việt (cháu Triệu Đà) và quan huyện Quý ở La Bạc Loan chết vẫn mang theo trống đồng và thạp đồng, bảo vật của người Việt thời Đông Sơn. Những điều này, tuy không chép rõ trong Sử ký của Tư Mã Thiên nhưng không phải là không thể thấy trong Sử ký.

Tôi viết bài này chỉ nhằm bình luận một sự kiện có liên quan đến chút hiểu biết của mình. Tôi tán thành một cách làm nghiêm túc và khoa học hơn: Được nghe chính thiền sư trình bày tư liệu và luận điểm học thuật của mình để rồi cùng trao đổi thẳng thắn, chân thành, mạch lạc về từng vấn đề học thuật. Chúng ta sẽ rất mừng mỗi khi lịch sử dân tộc được làm sáng tỏ và chính xác hơn một cách thực sự khoa học - vì rõ ràng, do nhiều nguyên nhân, chúng ta chưa thể thoả mãn với những nhận thức còn chưa đầy đủ hiện nay về nhiều lĩnh vực trong tiến trình lịch sử dân tộc.

Nguyễn Việt


Xem online : Làm sáng tỏ những khoảng trống của lịch sử?