Trang nhà > Lịch sử > Cận đại > Thi cử võ khoa thời Nguyễn
Nguyễn Thúy Nga
Thi cử võ khoa thời Nguyễn
Thứ Tư 11, Tháng Tư 2018, bởi
Lược thuật
Năm 1836, vua Minh Mệnh đã ban chỉ dụ cho Bộ Binh chuẩn bị bàn bạc đặt khoa thi võ. Chỉ dụ viết: “Khoa thi võ từ trước đến nay chưa từng được đặt ra. Nay có những người giỏi giang nghề võ, dũng cảm, mưu lược, biết võ kinh, phải nên rộng ơn thu nạp để phòng khi dùng đến. Vậy cho sang năm bàn đặt khoa thi võ”.
Phép thi cũng 3 năm mở một khoa, lấy các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu thi Hương võ và các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất mở khoa thi Hội võ. Phép thi mỗi khoa cũng có 3 trường: trường nhất thi nhấc vật nặng; trường nhì thi côn, quyền, đao, lăn khiên tay; trường ba thi bắn súng điểu thương. Như vậy thì nội dung thi Hương võ cử đời Nguyễn đã không thi võ kinh, chỉ chú trọng thi các môn võ nghệ. Học vị ban cho người thi đỗ cũng tham chước bên văn khoa mà thay đổi. Năm Minh Mệnh 9 (1828) đổi gọi Hương cống là Cử nhân; Sinh đồ là Tú tài. Vì vậy bên võ cử cũng đổi gọi là Võ cử nhân và Võ tú tài. Thi Hội võ cũng gồm 3 trường và nội dung thi cũng giống thi Hương võ cử nhưng yêu cầu cao hơn: môn nhấc vật nặng phải xách nặng hơn, môn bắn súng cự ly xa hơn.
- "Trọng văn khinh võ"
Lời bàn thì như vậy, nhưng đến năm Thiệu Trị 6 (1846) gặp khánh điển mới đặc cách cho mở ân khoa đầu tiên. Thí sinh ở 31 tỉnh đều phải về kinh dự thi, gọi là khoa thi Võ kinh. Khoa này cho Thái tử thiếu bảo hữu quân đô thống Tân Lộc tử Mai Công Ngôn làm Chủ khảo, quyền Hữu tham tri bộ Binh Hoàng Tế Mỹ làm Phó chủ khảo. Lấy đỗ 51 người là bọn Phạm Đức Sáng, Lê Uy v.v… Những người này gọi là Võ cử nhân. Đó là khoa thi võ đầu tiên của triều Nguyễn tổ chức tại Kinh đô.
Năm Tự Đức 18 (1865) bắt đầu mở khoa thi Võ tiến sĩ. Người nào đỗ cả 3 trường và kỳ thi phúc hạch, đấu côn gỗ đều trúng cả thì được lấy vào hạng trúng cách. Hoặc giả có người nào vốn có học vấn về võ nghệ, tình nguyện thi Đình đều phải khai báo trước. Quan trường lược khảo, hỏi đại nghĩa sách Võ kinh và Tứ thư cùng những sách dùng cốt yếu của danh tướng đời trước và việc hiện tại, gồm 5 điều. Người nào văn lý thông đạt thì cho vào thi Đình. Người nào không được điểm hoặc không biết chữ (chỉ thi võ nghệ 3 trường) thì cho đỗ Phó bảng. Các thể lệ về lấy đỗ, ban ân điển, ban yến, cấp ngựa vinh quy thì y lệ như văn đình thí.
Quan trường cũng đặt một chức Chủ khảo, một chức Phó chủ khảo. Lấy Thống chế, quyền Chưởng hữu quân là Tôn Thất Các sung làm Chủ khảo, Hữu thị lang bộ Hình là Nguyễn Oai làm Phó chủ khảo. Năm ấy có 97 người dự thi, lấy đỗ trúng cách 1 người là Võ Văn Đức và thứ trúng cách 7 người. Khi vào thi Đình, sai Đô thống trung quân kiêm Chưởng tiền quân, tả quân là Phạm Phú Thứ sung làm Võ giám thí đại thân. Kết quả cho Võ Văn Đức đỗ Đệ nhị giáp Võ tiến sĩ xuất thân, Võ Văn Lương đỗ Đệ tam giáp Đồng võ tiến sĩ xuất thân và 6 người khác đỗ Võ phó bảng.
Cũng năm này, sau khi thi Hội, vua Tự Đức sai tra trong sử sách Trung Quốc và Việt Nam để tìm danh hiệu ban cho người đỗ cao nhất ngạch thi võ, sao cho thật mật thiết và thanh nhã. Thấy đời Tống Hiến Tông gọi người đỗ đầu là Võ cử cập đệ, còn lại gọi là Võ cử xuất thân. Nhà Thanh thì gọi chung Nhất giáp, Nhị giáp và Tam giáp là Võ tiến sĩ. Ở nước ta, đời Lê gọi chung là Tạo sĩ, năm Minh Mệnh thứ 14 bàn gọi là Võ sĩ, nhưng danh hiệu ấy chưa thật thanh nhã nên cũng tham chước cả học vị thi Đình bên văn khoa mà gọi, nhưng thêm 2 từ Võ sĩ “cho có thanh nhã và phân biệt”. Ví như người đỗ Đệ nhất giáp thì gọi là Đệ nhất giáp Võ sĩ cập đệ, Đệ nhị giáp Võ sĩ xuất thân, Đệ tam giáp Đồng võ sĩ xuất thân. Vì vậy, Võ Văn Đức thi Hội đỗ đầu, vào thi Đình cũng đỗ đầu, được ban học vị Võ tiến sĩ đầu tiên của triều Nguyễn, danh hiệu chính thức là: Hội nguyên, Đình nguyên Đệ nhị giáp Võ tiến sĩ xuất thân. Võ Văn Lương, thi Hội thứ trúng cách, thi Đình được ban Đệ tam giáp Đồng võ tiến sĩ xuất thân.
Khoa thi Võ tiến sĩ triều Nguyễn bắt đầu từ đó, và học vị Võ tiến sĩ cũng bắt đầu có từ khoa này. Lại cho dựng bia đề tên người đỗ ở 2 bên tả hữu trước sân Võ miếu.
Để khuyến khích và răn đe các học quan, các viên sát hạch võ sinh, năm Tự Đức 26 (1873) quy định lệ thưởng phạt rất nghiêm khắc. Nếu có võ sinh thi đỗ thì Học quan, Quản suất; quan tỉnh, đạo và Thượng ty thống lĩnh đều được nghị thưởng theo mức độ nhiều ít khác nhau. Kỳ thi Hương: cứ 10 võ sinh dự thi mà 2 hoặc 3 người đỗ Võ cử nhân thì Học quan, Quản suất đều được thưởng kỷ lục một thứ; 4 hoặc 5 người đỗ thì Học quan, Quản suất được thưởng kỷ lục 2 thứ. Nếu có học sinh đi thi, môn xách nặng không đi được 2 trượng, cứ 1 người thì Học quan và Quản suất đều bị phạt bổng 1 năm; quan tỉnh, đạo dự sát hạch và Thượng ty thống lĩnh đều bị phạt bổng 9 tháng. Cứ 2 người thì Học quan và Quản suất bị giáng 1 cấp; quan tỉnh hạt và Thượng ty thống lĩnh đều bị phạt bổng 1 năm. Cứ 4 người trở lên thì Học quan và Quảng suất đều bị giáng 2 cấp; quan tỉnh, đạo và Thượng ty đều bị giáng 1 cấp nhưng vẫn cho lưu tại sở làm việc. Kỳ thi Hội, cứ 10 võ cử dự thi có 1 người đỗ Võ tiến sĩ thì học quan, Quản suất được thưởng kỷ lục 2 thứ; cứ 2 đến 3 người đỗ thì gia thưởng 1 cấp, nếu 4 hoặc 5 người đỗ thì gia thưởng 2 cấp v.v…
Căn cứ vào sách Đại Nam thực lục, chúng tôi đã thống kê được các khoa thi võ ở triều Nguyễn như sau:
Thi Hương võ
Về tổ chức thi Hương võ thời Nguyễn, sử sách có nhắc đến 5 khoa sau:
1. Ân khoa năm Thiệu Trị 6 (1846) thi tại kinh sư, lấy đỗ 51 Võ cử.
2. Tự Đức 20 (1867), mới mở trường thi tại Hà Nội, Bình Định (không ghi số người đỗ).
3. Tự Đức 21 (1868), mới mở Ân khoa trường Thanh Hóa (không ghi số người đỗ).
4. Tự Đức 31 (1878), mở Ân khoa tại 5 trường: Bình Định, Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nội. Chỉ ghi số đỗ riêng trường Hà Nội là 27 người
5. Tự Đức 32 (1879), không ghi thi những trường nào, chỉ ghi lấy đỗ 120 Võ cử.
Ngoài ra, căn cứ vào 2 tấm bia Võ tiến sĩ ở Huế, chúng tôi thấy trong tiểu sử một số người có ghi đỗ Võ cử nhân vào các năm Tự Đức 8 (Võ Văn Đức), Tự Đức 11 (Phạm Học), Tự Đức 17 (Nguyễn Văn Tứ, Dương Viết Thiệu v.v…) và Tự Đức 21 (Trần Văn Hiển, Lê Văn Trực v.v…). Nếu đúng như vậy thì số lần thi Hương võ tổng cộng là 8.
Thi Hội võ
Thời Nguyễn đã tổ chức thi Hội võ được 7 khoa, trong đó có 5 Chính khoa và 2 Ân khoa:
1. Tự Đức 18 (1865), lấy 2 Võ tiến sĩ, 6 Võ phó bảng.
2. Tự Đức 21 (1868), lấy 5 Võ tiến sĩ, 20 Võ phó bảng.
3. Tự Đức 22 (1869), lấy 3 Võ tiến sĩ, 22 Võ phó bảng.
4. Tự Đức 24 (1871) 5 Võ phó bảng.
5. Tự Đức 28 (1875) 13 Võ phó bảng.
6. Tự Đức 32 (1879) 25 Võ phó bảng.
7. Tự Đức 33 (1880) 19 Võ phó bảng.
Triều Nguyễn chỉ tổ chức được 3 khoa thi Điện võ (Tự Đức 18, Tự Đức 21 và Tự Đức 22, lý do là càng về các khoa sau các Võ cử nhân càng ít người biết chữ cho nên không tổ chức thi văn sách được) và 4 khoa thi Hội (Tự Đức 24, Tự Đức 28, Tự Đức 32 và Tự Đức 33), tất cả lấy đỗ 10 Võ tiến sĩ và 110 Võ phó bảng.
Sau đó, tình hình chiến sự ngày càng căng thẳng, quân Pháp đánh chiếm kinh đô Huế, buộc triều đình nhà Nguyễn phải ký hiệp ước Patenot năm 1884, đồng thời liên tục phản đối triều đình Nguyễn tổ chức thi võ khoa. Vì vậy, dù cho vào năm Kiến Phúc 1 (1884) vẫn bàn định về việc sửa đổi một số nội dung thi Hương võ và Hội võ, nhưng trên thực tế từ năm Tự Đức 33 (1880) các cuộc thi võ không còn được tổ chức, kết thúc sớm hơn văn khoa gần nửa thế kỷ (Kỳ thi Hội văn khoa cuối cùng là vào năm 1919 tại Huế).
Như vậy, kể từ khoa thi võ đầu tiên năm Bảo Thái 5 (1742) đến cuối đời Tự Đức (1880), võ cử nước ta đã trải qua chặng đường hơn một thế kỷ rưỡi với hơn 200 người đỗ Tạo sĩ, Tiến sĩ và hơn 100 người đỗ học vị Phó bảng ngạch võ. Một con số quả thật khiêm tốn đối với một dân tộc có tinh thần thượng võ như dân tộc Việt Nam.
Xem online : Thi cử võ khoa thời Lê Trung hưng
Source: Võ cử và các võ tiến sĩ ở nước ta, NXB Thế Giới 2003