Trang nhà > Hà Nội > Địa linh > Làng Bát Tràng
Làng Bát Tràng
Thứ Bảy 17, Tháng Năm 2008, bởi
Từ Hà Nội, du khách thích xuôi sông Hồng ngắm cảnh đẹp ven bờ thì xuống tàu thuỷ ở bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen đi đến bến Bát Tràng nằm ở cạnh cửa kênh đào Bắc Hưng Hải. Du khách muốn đi đường bộ có thể lên xe bus 47 từ điểm trung chuyển Long Biên qua cầu Chương Dương rẽ phải theo tỉnh lộ TL195 đến dốc Giang Cao lại rẽ phải nữa là đến làng Bát Tràng (khoảng 15 km).
Bến thuyền Bát Tràng. Panorama NCCong©2015
Cách nhanh nhất là dùng xe cá nhân đi men đê sông Hồng sau khi vượt qua các cây cầu như Chương Dương, Vĩnh Tuy, Thanh Trì. Nếu theo quốc lộ QL5 đến Trâu Quỳ rẽ phải rồi theo đường liên huyện qua xã Đa Tốn đến Bát Tràng thì lộ trình dài hơn khoảng 5 km. Dọc theo tất cả những con đường trên đều có nhiều đình chùa cổ của huyện Gia Lâm.
Địa giới
Xã Bát Tràng (鉢 場 社) gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao. Trước năm 1945, Bát Tràng và Giang Cao là hai xã riêng biệt: xã Bát Tràng thuộc tổng Đông Dư, còn xã Giang Cao thuộc tổng Đa Tốn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh.
Thời Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, Kinh Bắc năm 1822 đổi làm trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh. Đến năm 1862 thuộc về phủ Thuận Thành, năm 1912 cắt về phủ Từ Sơn.
Năm 1948, xã Bát Tràng với xã Giang Cao và xã Kim Lan sáp nhập thành xã Quang Minh. Từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên.
Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia Lâm thuộc về ngoại thành Hà Nội. Năm 1964, xã Bát Tràng được thành lập gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang Cao như hiện nay.
Lịch sử và truyền thuyết
Năm 1958 khi đào kênh Bắc Hưng Hải cắt qua phía nam làng Bát Tràng người ta đã tìm thấy dấu vết của làng Bát Tràng xưa nằm sâu dưới lòng đất đến 12-13m. Đó là những di tích nhà ở, sân gạch, và nhiều phế vật bằng gốm. Những công trình khai quật khảo cổ học trong tương lai có thể cho thấy rõ hơn bề dày lịch sử và những di tích của làng gốm Bát Tràng xưa đang bị chôn vùi trong lòng đất.
Chợ gốm Bát Tràng. Panorama NCCong©2015
Theo sử biên niên có thể xem thế kỷ XIV-XV là thời gian hình thành làng gốm Bát Tràng.
- Đại Việt sử ký toàn thư chép "Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thú 12 (1352) mùa thu, tháng 7, nước lớn tràn ngập, vỡ đê xã Bát, Khối, lúa má chìm ngập. Khoái Châu, Hồng Châu và Thuận An bị hại nhất". Xã Bát là xã Bát Tràng, xã Khối là xã Thổ Khối, hai xã ven đê bên tả ngạn sông Nhị, tức sông Hồng ngày nay.
- Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì năm 1376, trong một cuộc Nam chinh, đoàn chiến thuyền của vua Trần Duệ Tông xuất phát từ Thăng Long xuôi theo sông Nhị (sông Hồng) đi qua "bến sông xã Bát" tức bến sông Hồng thuộc xã Bát Tràng.
- Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép "Làng Bát Tràng làm đồ bát chén" và còn có đoạn "Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Câu thuộc huyện Văn Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát đĩa, 200 tấm vải thâm"...
Nhưng theo những câu chuyện thu thập được ở Bát Tràng thì làng gốm này có thể ra đời sớm hơn. Tại Bát Tràng đến nay vẫn lưu truyền những huyền thoại về nguồn gốc của nghề gốm như sau:
- Vào thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông) (hiện nay tại Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu đỏ màu vàng thẫm. Câu chuyện trên cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang với thời Bắc Tống nghĩa là trước năm 1127.
Đến nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử của ba nhân vật trên cũng như khẳng định sự hình thành của làng.
Chùa Am, Bát Tràng. Panorama NCCong©2015
Bát Tràng có đủ đình làng, chùa, đền, miếu. Hàng năm, lễ hội làng Bát Tràng tổ chức vào ngày 15 tháng 2 âm lịch và thường kéo dài trong 7 ngày. Tiêu biểu nhất là lễ hội Rước nước. Tại Bát Tràng, văn hoá dòng họ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống và tín ngưỡng của dân làng, được cả làng tôn trọng.
Theo ký ức và tục lệ thì dòng họ Nguyễn Ninh Tràng là cư dân bản địa và lâu đời nhất nên được giữ vị trí tôn trọng trong ngôi thứ cũng như trong lễ hội của làng. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh, một lò gốm ở Thanh Hoá, nhưng chưa có tư liệu xác nhận. Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Trịnh, Lê, Vương, Phạm, Nguyễn... ghi nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hoá Ngoại. Ngày nay, Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm gốm. Theo truyền thuyết và gia phả một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi ở vùng này.
Những chặng đường lớn
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Việc nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về đây hành nghề và lập nghiệp đã tác động mạnh đến hoạt động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có Bát Tràng. Đặc biệt vùng này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra đây lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường (phường Đất Trắng).
Bến xe Bát Tràng. Panorama NCCong©2015
Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ làng gốm bình thường trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho Trung Quốc.
Từ cuối TK XVII, nhất là từ TK XVIII, việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút, nguyên do là vì gốm sứ chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á. Gốm Bát Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có được thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí và gạch xây dựng...
Thế kỷ XVIII-XIX, xuất khẩu gốm càng giảm sút, nhưng Bát Tràng vẫn có tiếng ở trong và ngoài nước. Thời Pháp thuộc, tuy bị một số xí nghiệp gốm sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh, Bát Tràng tiếp tục duy trì được hoạt động. Kháng chiến 1946-1954 kết thúc, tại làng đã thành lập Xí nghiệp gốm Bát Tràng (1958) với 1250 công nhân, Xí nghiệp X51, X54 (1988) cùng các hợp tác xã và Liên hiệp gốm sứ (1984) đào tạo hàng trăm thợ trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở ở các tỉnh.
Từ năm 1986 kinh tế cả nước đổi mới, các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổ phần. Tại Bát Tràng, rất nhiều công ty và tổ sản xuất ra đời. Cả xã có 1221 hộ chuyên làm gốm và dịch vụ, riêng thôn Bát Tràng gồm khoảng 2700 người với 570 hộ đều làm nghề gốm. Xuất khẩu càng ngày càng tăng. Ngoài các mặt hàng truyền thống, Bát Tràng còn sản xuất nhiều sản phẩm mới như ấm chén, bát đĩa, lọ hoa, tranh gốm, tượng các loại…và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng. Các hộ giàu có xây được nhà xưởng to và sắm thiết bị hiện đại. Trong vài năm trở lại đây, bộ mặt của làng gốm Bát Tràng thay đổi rất mạnh; đường xá, lò xưởng, chợ búa, cửa hiệu đều khang trang hơn hẳn trước kia.
Xem online : Gốm Bát Tràng
Đông Tỉnh