Trang nhà > Văn chương > Truyện ngắn > Miếu thờ bà mang tên đàn ông
Miếu thờ bà mang tên đàn ông
Chủ Nhật 13, Tháng Bảy 2008
Vừa qua, tôi có đến một làng vùng đồng bằng Bắc bộ, nơi sinh ra nhân vật Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Người dân ở đây kể cho tôi nghe chuyện một ông làm chủ tịch xã có 5 tháng, không phải đảng viên, được đặt tên cho một ngôi miếu cổ. Chuyện từ hồi trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Thiết nghĩ, đọc xong truyện này, chắc bạn đọc vẫn thấy ý nghĩa thời sự của nó.
Làng Chát, một làng cổ, có bề dày trên 500 năm. Một vùng chiêm trũng nghèo khó ở đồng bằng Bắc bộ. Làng có nhiều cái đặc biệt, nhiều chuyện lạ. Đặc biệt và lạ nhất là có miếu Tiết phụ. Nghe nói, cách đây vài trăm năm, có một bà góa, chồng mất sớm, ở vậy nuôi đứa con trai độc nhất. Người con học thành tài, được làm quan to trong triều.
Báo đáp công sinh thành nuôi dưỡng, người con lập miếu thờ mẹ. Gọi là miếu tiết hạnh khả phong, sau gọi tắt là Tiết phụ. Ngôi miếu này sẽ không có gì đặc biệt nếu không gắn với cuộc đời một người đàn ông. Người đàn ông ấy lại được người dân trong vùng đặt tên cho miếu. Miếu thờ bà lại mang tên đàn ông thì quả là chuyện lạ trên thế gian này.
Người đàn ông đó có tên gọi là cai Tòng.
Ông là người họ Trần ở xóm Trại, thuộc dạng cùng đinh, không có ruộng đất. Ông bỏ làng đi từ nhỏ, không biết đi đâu, làm gì. Cha mẹ chết, không về chịu tang. Nghe nói ông vô Nam làm phu đồn điền. Cả làng chẳng còn ai nhớ tới ông nữa. Ông về làng vào cuối năm 1943, như một người lạ.
Ông đi cà nhắc, cà thọt với chiếc ba-toong bịt đồng và bộ đồ lính bằng dạ màu vàng xỉn gọi là áo “Ba đờ xuy”. Ông nói, ông đi lính, sang tận Pháp đánh nhau với quân Đức. Thua trận, ông lại sang Bắc Phi đánh tiếp, được lên chức cai thì bị thương ở chân. Nhớ nhà quá, ông trốn xuống tàu hàng từ Bắc Phi về Hải Phòng và về làng. Ông còn xổ ra một lô một lốc những câu Pháp bồi. Người biết tiếng Pháp nói lại là ông bảo “người với người là chó sói” rồi chửi tuốt luốt...
Người ta đến với ông cũng bởi tò mò, rồi chẳng để ý tới ông nữa. Ông không có đất làm nhà, sống nhờ hiên miếu Tiết phụ, ngày đi làm thuê kiếm miếng ăn. Một ngày tháng chạp hanh khô, trong lúc đào hang bắt rắn ông phát hiện ra một tảng đá hình vuông, trong đó có khắc hình bùa chú gì đó, loằng ngoằng như con nhện, con rắn... Tảng đá không nặng lắm, chừng 20 ký. Ông vác về để ở sân đình, mời các vị tiên chỉ trong làng tới, bảo: “Có kẻ nào đó xấu bụng, yểm bùa long mạch làng ta!”.
Cả làng đến xem, cùng khẳng định: “Đúng là bùa yểm rồi”.
Cứ theo lý thuyết phong thủy truyền từ xa xưa để lại, long mạch làng Chát đi từ cửa đình đến miếu Tiết phụ. Đường trục ấy chạy dài 500m theo hướng Bắc-Nam. Vì là long mạch của làng, nên trên tuyến trục ấy không có đường lộ, nhà cửa hay gò đồi. Tảng đá có khắc hình bùa chú kia chặn ngang long mạch, nhất thiết phải do người nào đó làm ra và chôn xuống.
Khi các cụ tiên chỉ ra đình bàn việc làng, ắt phải có một mâm. Cai Tòng tự cho mình có công lớn, không đợi mời, nhảy tót vào chiếu, tự tay rót rượu, uống liền hai chén, khí thế phừng phừng, khua tay nói hùng hồn: “Trước đây tôi không tin chuyện tướng số, phong thủy. Giờ thì tôi tin. Các cụ có biết không, ở Pháp hay ở châu Phi, tôi lập biết bao công trạng; vậy mà họ không phong cấp, phong chức cho tôi. Trong khi đó, có người mới qua trận đầu đã lên quan một, quan hai. Người ta bảo vì người nọ tốt số, còn tôi số đen.
Mà vì sao lại số đen kia chứ! Không phải vì bùa yểm long mạch làng ta thì là cái gì? Các cụ biết đấy, đã mấy đời nay, người làng Chát không có ai làm quan. Dân lang bạt kiếm ăn xứ người như tôi cũng chẳng ngóc đầu lên được. Toàn là “vắt mũi bỏ miệng”, bị thiên hạ khi dễ xem thường. Nay tôi đã phá được bùa yểm rồi, long mạch đã khai thông, nhất định làng ta sẽ “ăn nên làm ra”, nổi đình nổi đám...”.
Các cụ tiên chỉ làm bộ lắng nghe, gật đầu tán thưởng, nhưng trong bụng thì giận lắm, giận điên lên được. Có cụ giận run người, rượu thịt đã ở trong miệng, nuốt không trôi, nấc một cái, bắn vọt ra ngoài. Ô uế cả chỗ ngồi. Từ xưa tới nay, các cụ chưa thấy ai càn rỡ như thế này. Nó là thứ cùng đinh không tấc đất cắm dùi, quanh năm làm thuê ăn chực, lại dám nhảy vào chiếu tiên chỉ, phét lác kể công.
Khổ nỗi, cơn giận của các cụ nóng bỏng ở trong, lại không phát ra ngoài. Không một ai dám lên tiếng “đập” lại thói hỗn xược của cai Tòng. Bởi các cụ là những người từng trải việc đời, hiểu rất rõ cái lý “phép vua thua lệ làng, vua còn thua thằng khùng” – cai Tòng không phải là thằng khùng, nhưng nó có cái thế trở thành khùng.
Thử chọc giận hắn xem. Có ít nhất 5 người làng Chát bị hắn xách ba-toong bịt đồng rượt chạy trối chết. Mới đây thôi, ngay giữa đình, khi làng bàn việc phân bổ tiền góp để mở hội đình đang dịp Tết Nguyên đán, hắn múa ba-toong trên tay như Tôn Hành Giả múa thiết bảng, sừng sộ dọa dẫm: “Đây nói trước cho biết, thằng này không có tiền góp nhưng thằng này có quyền ăn ở chiếu nhất. Cứ thử đuổi thằng này xem. Cây ba-toong này đã từng chọc lòi ruột ba tên phát xít Đức. Mà bọn phát xít Đức không phải là thứ lính lệ phố huyện đâu nha”.
Hắn lại xổ ra một lô tiếng Pháp bồi, nghe chỉ thấy những “mẹc” là “mẹc”... Các cụ đành phải sợ, phải nuốt giận làm vui cho qua chuyện.
Không hiểu sao, sau khi phá bỏ bùa yểm long mạch, làng Chát bỗng nổi danh hẳn lên. Hội đình làng năm ấy, làng Chát giành ba giải nhất về vật, cờ người và bắt vịt. Cai Tòng lại nhận công về mình. Ông ta là “huấn luyện viên” cho những người tham dự ba môn ấy. Ông ta đi khắp làng, rêu rao: “Trò giỏi là nhờ thầy. Không thế sao các cụ lại nói “không thầy đố mày làm nên”. Tôi là thầy, là huấn luyện viên, mang giải thưởng vẻ vang cho cả làng. Làng phải có gì trả công cho tôi chứ...”.
Đúng là cai Tòng có công lớn trong hội đình năm ấy. Không có những chỉ dẫn, miếng mẹo của ông ta, làng Chát không thể vượt qua các đối thủ nặng ký khác. Làng Chát đành phải trả công cho cai Tòng. Làng cho cai Tòng được toàn quyền sử dụng đất vườn của miếu và công nhận chính thức là người trông coi miếu Tiết phụ. Miếu có mảnh vườn, đất khá tốt nên cai Tòng không phải vác bụng đi ăn chực thiên hạ nữa.
Nhưng nếu chỉ có vậy, cai Tòng không thể trở thành người danh giá “của làng Chát”. Phải có những sự kiện khác, những “công sức” lớn mới được đưa vào hàng “nhân vật nổi bật” của lịch sử đương đại làng Chát. Đầu tiên là công bắt được ba tên cướp trâu nổi tiếng.
Danh tiếng cai Tòng lừng lẫy khắp vùng. Người ta còn thêu dệt trận kịch chiến giữa cai Tòng và bọn cướp giống như một tích truyện bên Tàu. Làng Chát buộc lòng phải nể trọng cai Tòng.
Nói buộc lòng là hợp đạo lý của người làng Chát. Xưa nay, họ vốn ưa thích những người khôn ngoan, biết khiêm tốn, nói năng vừa phải. Họ không thích những người ngang tàng xách mé không coi trên dưới là gì, tự cao tự đại. Họ thở dài nói với nhau, có ý tiếc rẻ: “Phải chi hắn đừng có ngông nghênh ra vẻ ta đây”. Các cụ tiên chỉ thì thầm rỉ tai nhau: “Hắn có tài nhưng vô đức, rồi sẽ chuốc họa vào thân thôi”...
Nhưng rồi, người làng Chát bắt đầu nhận thấy cai Tòng có đức, mà lại là đức lớn. Cái đức của cai Tòng mang lại cơm áo, nhà cửa, ruộng đất và danh dự cho người ta, chứ không phải chỉ là sự nhã nhặn nhu mì trên kính dưới nhường.
Hồi ấy, lý trưởng làng Chát tên Bạc, họ Bùi, quyền thế rất lớn. Lão có con trai ở đội kèn Tây trên tỉnh lỵ, biết nói tiếng Tây, chơi thân với các sếp Tây. Con gái lão tuy là lẽ mọn của quan huyện, nhưng có đủ sức lèo lái quan huyện. Mặc dù vậy, lý trưởng Bạc vẫn luôn nói lời khiêm nhường, không quát nạt hoạch họe ai. Nhiều người khen lão là người tốt.
Vậy mà sau vụ bắt cướp, cai Tòng vung vẩy ba-toong đi khắp làng rêu rao sẽ hỏi tội tên “ngụy quân tử” Bùi Bạc chuột chù. Dân làng Chát ớn lạnh. Không biết cai Tòng to gan lớn mật cỡ nào mà dám động tới Lý Bạc, lại còn đem cả cái xấu ngoại hình của người ta ra nữa – bởi Lý Bạc người nhỏ con, mồm dẩu trông giống như con chuột chù. Lý Bạc có uy lớn là chuyện hiển nhiên. Lão còn có đức được nhiều người nể trọng. Thế nên người ta khuyên nhủ, răn dạy và cảnh cáo cai Tòng rằng:
– Chớ nên gắp lửa bỏ tay người.
Cai Tòng không thèm để lọt tai những lời khuyên can, nghênh ngang thọc ba-toong vào cánh cổng gỗ lim của nhà Lý Bạc, quát nạt: - “Con cáo già quỷ quyệt Bùi Bạc chuột chù kia, giờ đền tội của ông đã đến. Khôn hồn hãy ra giữa sân đình nhận tội với dân làng”.
Tối hôm rằm năm đó, người làng Chát bỏ hết mọi chuyện nhà kéo ra sân đình xem cai Tòng hỏi tội Lý Bạc. Xưa nay, ở sân đình chỉ diễn ra chuyện lý trưởng hỏi tội dân đen. Đây quả là chuyện cực lạ, tự cổ chí kim chưa từng có và hầu hết dân làng Chát kéo nhau đi xem với sự háo hức như xem một trận đấu vật “kỳ phùng địch thủ”.
Người ta quan tâm đến chuyện thắng thua nhiều hơn là chuyện gian ác của Lý Bạc. Ai cũng khẳng định phần thắng thuộc về Lý Bạc. Nhiều người khuyên cai Tòng: “Đấu lực chắc chắn là ông thắng, nhưng đây là chuyện đấu trí. Ông không thể thắng nổi Lý Bạc đâu. Đến như những người bị hại còn không biết mình bị hại thì anh làm sao đấu lại với cái “lý hại người” ấy. Bỏ cuộc đi”...
Cai Tòng không nghe, nhất quyết vào trận. Nói rằng: “Trên đời này không tồn tại cái “Lý hại người”. Cái gian ác của lão nhất thiết phải vạch ra cho mọi người thấy”. Lý Bạc vào trận cũng hết sức tự tin.
Trước đó, lão đi khắp làng, gặp mọi người, to nhỏ phân bua: “Hắn là kẻ háo danh, háo thắng. Không hiểu sao sắp ở tuổi tri thiên mệnh (tuổi 50) như hắn lại có thể nông nổi bốc đồng như vậy. Tôi không thèm chấp. Thử hỏi cả nước này có ai làm lý trưởng như tôi không? Mọi thằng lý trưởng khác đều cậy quyền cậy thế, ra oai làm tàng. Tôi như thế nào, cả làng đều biết. Tôi đủ lý, đủ sức để gò cổ hắn giải lên huyện về tội làm loạn. Nhưng, tôi là người hiểu đạo lý: giấy rách giữ lề, lá lành đùm lá rách, xấu chàng hổ ai, chẳng nên vạch áo cho người xem lưng... Tôi chấp nhận đấu lý với hắn cũng vì thể diện làng ta, vì mọi người.
Sách có dạy: người quân tử không sợ gì hết, chỉ sợ lòng mình vẩn đục, không ngại điều gì nếu không thẹn với lương tâm; lại nói: quân tử khác tiểu nhân ở chỗ biết kính trên nhường dưới, biết giáo hóa kẻ ngu dại, điên khùng...”.
Ý Lý Bạc ám chỉ cai Tòng là kẻ dưới, là tên ngu dại, điên khùng.
Tối ấy trăng tròn vành vạnh, sáng láng khắp vùng. Ánh trăng lẫn trong ánh đuốc, tạo nên một cảnh sắc tương phản hết sức kích động... Cai Tòng cười ha há, nói trước: - Ông ám chỉ tôi là kẻ dưới, là tên ngu dại điên khùng phải không?
– Phải?
– Ông tự cho mình là người quân tử luôn giữ sạch lòng, biết kính trên nhường dưới phải không?
– Dĩ nhiên! Cả làng đều biết điều đó...
– Vậy, khi thấy nhà người ta nghèo khó, cha chết không có tiền ma chay, chôn cất, người quân tử phải làm gì?
– Phải giúp tiền, giúp sức.
– Giúp hảo tâm hay vụ lợi?
– Đương nhiên là hảo tâm!
– Mười năm trước, ông Kê mất, ông giúp cho bác Cả Kình bao nhiêu?
– Người quân tử giúp người không mong trả ơn nên không cần nhớ.
– Thế vì sao ba sào ruộng nhà bác Kình lại thuộc về của ông?
– Đi tìm ông Kình mà hỏi?
– Vì sao bác Kình gái phải treo cổ tự tử?
– Chui xuống mồ bà ấy mà hỏi?
– Vì sao bác Kình phải bỏ làng, phiêu bạt xứ người...
– Đi tìm ông ấy mà hỏi...
– Tôi đã hỏi rồi! Bác Cả Kình hiện đang làm phu ở bến Sáu kho Hải Phòng. Khi về nước, tôi đã gặp bác ấy và bác ấy nhờ tôi lột trần mặt nạ của ông để dân làng khỏi bị ông lừa gạt nữa...
Khán giả vây tròn vòng trong vòng ngoài hai đấu thủ, nín lặng nghe từ đầu, đến giờ ồ lên một tiếng. Người ta lao xao hỏi nhau “Bác Cả Kình còn sống à!”, “Sao nghe nói bác ấy bị lính Nhật bắn chết ở Lạng Sơn rồi...”.
Lý Bạc rời khỏi chiếu, đi vòng quanh, huơ tay múa chân, làm bộ uất hận nói với mọi người: - “Dân làng xem đấy, thằng này điên rồi. Nó nhục mạ, vu khống tôi. Tôi đã tận tâm, tận sức cứu giúp gia đình ông Cả Kình như thế nào, hẳn mọi người đều rõ. Xin dân làng hãy để tôi dùng phép quan trị tội vu khống của nó!”. Lý Bạc đứng giữa chiếu, oai vệ quát “Tuần đinh đâu?”. Bốn người tuần đinh trấn giữ 4 góc chiếu dạ một tiếng, đứng bật dậy, hằm hằm sát khí...
Cai Tòng vẫn ngồi, thong thả nói: - “Chuyện đâu còn có đó, hô hoán vội làm chi. Ông cứ ngồi xuống. Đây mới là phần mở đầu...”.
Có người ở vòng ngoài nói to: “Đúng rồi, cứ để anh ta nói hết đã”.
Lý Bạc hậm hực ngồi xuống! Đám tuần cũng lùi ra. Cai Tòng rít thuốc lào, nhả khói từ từ.
– Nghĩa là ông nhất quyết không nhận tội: Lừa gạt dồn ép cướp vợ, cướp đất nhà bác Cả Kình?
– Đồ điên!
Trong đám đông, có người nói: “Không có chuyện ấy đâu. Trong vụ này ông Lý có hảo tâm. Ông giúp bác Kình trai đi làm phu mỏ, giúp bác gái chữa trị bệnh tật. Không hề có chuyện cướp vợ cướp đất của người”.
Cai Tòng đứng lên, oai nghiêm như vị tướng trước trận tiền, dõng dạc nói: - Dân làng hãy nghe đây. Dân làng chớ có lơ mơ chỉ thấy cái lối nói, lối diễn quân tử của lão mà không thấy cái dã tâm gian ác, quỷ quyệt của lão. Tôi nói ra chuyện này và những chuyện kế tiếp không hề bịa đặt, thêm bớt. Tất cả đều có chứng cớ rõ ràng.
Về chuyện nhà bác Cả Kình, sự thể như sau: Ông Kê chết. Bác Cả túng thiếu, đến nhà Lý Bạc mượn tiền lo hậu sự, ma chay. Lý Bạc máu dê, từ lâu đã để mắt tới bác Cả gái. Lão làm bộ hảo tâm, lo chu tất hậu sự ông Kê, lại rủ rê ông Cả giải sầu bằng thuốc phiện. Ông Cả bị thuốc phiện mê hoặc, không thể nào dứt được, phải vay tiền Lý Bạc. Bác Cả gái khuyên chồng không được, giận đời, hận đời, lại sa vào chuyện uống rượu giải sầu. Lý Bạc nuôi dưỡng hai con nghiện ấy một thời gian rồi giở mặt đòi nợ. Bác Cả Kình phải nhượng ba sào ruộng và cả vợ mình cho Lý Bạc.
Lý Bạc đưa bác Cả gái lên tỉnh lỵ, thuê nhà cho ở, tiếng là để chữa bệnh động kinh (do nghiền rượu nặng) nhưng thực chỉ là thứ gái bao, thứ đồ chơi cho Lý Bạc. Khi đã chán rồi, Lý Bạc đuổi bác Cả gái ra khỏi nhà. Bác Cả gái về làng, treo cổ tự tử. Bác Cả trai đau đớn vật vã, bỏ làng... ra đi.
Trong túi tôi hiện có một bản giấy bán đất; gán vợ của bác Cả Kình cho Lý Bạc. Như vậy, trong vụ này, Bùi Bạc, lý tưởng làng Chát tuy không trực tiếp giết người nhưng đã phạm tội xô đẩy người ta vào chỗ chết, tuy không phải cướp đất trắng trợn nhưng cũng phạm tội ép buộc người ta phải nhượng đất. Ngoài ra, lão còn phạm tội lừa gạt dụ dỗ rồi hủy hoại phẩm giá đàn bà có chồng, giống như tội hiếp dâm...”.
Người làng Chát tối ấy sững sờ, ngớ ngẩn. Hết thảy mọi người im thin thít lắng nghe từng tiếng, từng lời của cai Tòng. Hết vụ Cả Kình đến anh em nhà nọ tranh chấp tài sản đánh nhau vỡ đầu thưa kiện kéo dài đến tàn mạt. Tất cả cũng vì Lý Bạc “xui nguyên dục bị” để ăn của đút lót hai đầu. Rồi đến vụ nhà kia có ba con trâu, mua không rõ xuất xứ, bị Lý Bạc dọa là tiêu thụ trâu gian cho bọn cướp, hãi quá bán rẻ một nửa cho lão... Lần lần, chân tướng Lý Bạc hiện ra, rõ ràng là thứ đại gian đại ác “ăn chó cả lông”.
Người làng Chát tỉnh ngộ, gào lên: - “Đập chết hắn đi, đồ chuột chù hôi thối”... Đêm ấy, nếu không có cai Tòng bảo vệ, chắc chắn Lý Bạc phải bỏ mạng bởi gạch đá và những cú đấm đá hàng chợ... Lý Bạc bị đòn mang bệnh nặng, ho ra máu. Lão cũng không dám báo quan. Dân làng cũng chẳng cần báo quan huyện. Mọi “việc quan” trong làng đều do cai Tòng xử lý. Lý Bạc chỉ còn là bình phong. Cai Tòng được dân làng nể trọng thực lòng vì lối xử lý công bằng, có tình, có lý. Ai cũng khen: “Quan chức nào cũng như cai Tòng, dân sướng bằng tiên”.
Hơn một năm sau, khi cách mạng nổ ra, Lý Bạc ho một hồi dài rồi chết. Con cháu lão tứ tán bốn phương, không ai dám ở lại trong làng. Cai Tòng được cách mạng trọng dụng, cử làm Chủ tịch xã Liên Xá.
Tiếc thay, làm chủ tịch xã được chừng 5 tháng, cai Tòng ngã bệnh chết đột ngột. Buổi tối, ông còn uống rượu với đám tự vệ ở điếm canh, đêm về Miếu Bà ngủ. Sáng ra, người ta thấy ông chết cứng từ lúc nào.
Sau này, nghe những người trong nghề y tế nói lại, chắc ông bị “nhồi máu cơ tim” chết bất đắc kỳ tử. Dân làng Chát thương ông lắm, cả đời khốn khổ không vợ, không con, lúc chết không ai vuốt mắt...
Từ đó, dân trong vùng gọi miếu Tiết phụ là miếu Cai Tòng. Nghe nói hồi thập niên 70 của thế kỷ trước lãnh đạo xã có họp bàn về tên miếu. “Ông ấy chỉ tham gia cách mạng có 5 tháng, cũng không phải liệt sĩ, công lao chưa có nhiều nên chưa xứng đáng đặt tên cho miếu thờ”. Lãnh đạo xã nói vậy, xin huyện cho quyết định. Huyện nói: phải, cứ thế mà làm.
Bởi vậy trong giấy tờ văn bản về địa giới hành chính, làng Chát vẫn có miếu Tiết phụ. Nhưng trong dân gian, người trong vùng vẫn gọi miếu đó là miếu Cai Tòng…
Trần Văn Tuấn (SGGP)