Trang nhà > Con người > Tâm linh > Chùa Thập Tháp Di Đà (Quy Nhơn)
Chùa Thập Tháp Di Đà (Quy Nhơn)
Thứ Bảy 3, Tháng Ba 2007
Nằm ở phía bắc thành cổ Đồ Bàn, nay thuộc địa phận thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, chùa Thập Tháp được coi là một ngôi chùa cổ nhất thuộc thiền phái Lâm Tế đã được xây dựng ở miền Trung. Chùa vẫn còn giữ những nét cổ kính của cả một quần thể kiến trúc điêu khắc cùng với toàn bộ cảnh hài hòa giữa thiên nhiên.
Các nhà nghiên cứu cho biết, văn bia còn để tại chùa ghi nhận rằng chùa Thập Tháp là hậu thân của am Di Đà được thiền sư Nguyên Thiều sáng lập ở làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn vào năm 1665 trong đời chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền vương). Nơi đây vốn có gò Thập Tháp với mười ngôi tháp cổ của người Chăm, cho nên sau này khi am nhỏ đã mở rộng thành chùa lớn thì người ta gọi là chùa Di Đà Thập Tháp, tên chữ là Thập Tháp Di Đà tự. Sách Đại Nam nhất thống chí nói chùa này được lập năm 1683, nhưng theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang thì niên đại này có lẽ để ghi nhận lúc chùa đã khánh thành sau 18 năm xây dựng quy mô. Đến năm 1691, chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu (Minh Vương) ban biển ngạch và câu đối.
Thiền sư Nguyên Thiều
Các tài liệu cho biết ngài họ Tạ, có các danh xưng là Hoán Bích và Siêu Bạch, người huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu. Năm 19 tuổi, ngài xuất gia; rồi không lâu sau đó, theo thuyền buôn Quảng Đông tới xứ Đàng Trong vào năm 1665. Xây dựng chùa Thập Tháp Di Đà xong, ngài giao việc chăm sóc cho một thiền sư đồng môn là Hòa thượng Đạo Nguyên (1656-1716) và một vị cao đồ là Hòa thượng Kỳ Phương (1682-1744) để ra Thuận Hóa theo yêu cầu của chúa Nguyễn Phúc Tần. Tại đó ngài lập nên chùa Quốc Ân, xây tháp Phổ Đồng, rồi lại đến trụ trì chùa Hà Trung ở xã Hà Trung, huyện Phú Lộc thuộc ngoại ô phủ Thừa Thiên và thị tịch tại đó, thọ 81 tuổi. Ngài cũng đã từng vào Gia Định lập chùa Giác Duyên. Các tài liệu cho biết, lúc thị tịch, ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu tặng thị hiệu là Hạnh Đoan. Minh vương Nguyễn Phúc Chu là vị chúa Nguyễn thứ 6, lên ngôi năm 1691 và mất năm 1725; như vậy, chắc chắn ngài Nguyên Thiều phải tịch trong khoảng thời gian đó.
Địa thế và kiến trúc
Ngôi chùa cổ kính này giấu mình giữa một vùng quê xanh tươi và yên ả, cách trung tâm TP Quy Nhơn khoảng 28km về phía tây-bắc. Chùa nằm trên ngọn đồi mang tên Long Bích, trước mặt là núi Mò-O (còn gọi núi Thiên Bút hoặc núi Thiên Đình) sau lưng được bao bọc bởi một nhánh sông Côn, phía kia có con sông Quai Vạt chảy quanh.
Trước cổng chùa có một hồ sen rộng chừng năm trăm mét vuông, bờ hồ được xây bằng đá tổ ong. Qua mấy trăm năm, chùa đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Lần trùng tu đầu tiên được thực hiện năm 1749 vào lúc thiền sư Liễu Triệt trụ trì, trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ vương). Lần trùng tu này, ngài Liễu Triệt đã cho xây dựng một ngôi chính điện khang trang. Sau đó, các ngài Mật Hoàng, Minh Lý, Phước Huệ, Kế Châu… đều có những đóng góp quan trọng trong việc duy trì và mở rộng ngôi phạm vũ này mà vẫn không đánh mất nét cổ kính của ngôi chùa và sự hài hòa với cảnh quan thiên nhiên.
Từ ngoài vào, đi dọc hồ sen đến cổng chùa, du khách thấy ngay hai trụ gạch xây uy nghi, trên đầu trụ là hai con sư tử đá. Giữa hai trụ đá có một vòng cung nối liền, phía trên gắn hai chữ “Thập Tháp”. Qua khỏi cổng là một bức bình phong; mặt bình phong có đắp nổi hình long mã phù đồ đặt trên một bệ chân quỳ.
Bước qua cổng chùa, du khách sẽ đi qua khoảng sân rợp bóng mát của những cây cổ thụ có niên đại hơn 200 năm để vào chùa chính. Chùa được kiến trúc theo hình chữ khẩu, bốn vày, ba gian, hai chái, có hai lớp tường bao bọc xung quanh. Khu vực chính của chùa gồm chính điện, khu phương trượng, khu tây đường và đông đường, có dãy hành lang rộng lớn nối liền, bao bọc một sân rộng, lát gạch vuông với nhiều loài hoa cảnh.
Chính điện kết cấu chủ yếu bằng gỗ quý, chạm trổ tinh xảo, công phu với hoa cuộn, hoa sen, rồng, phượng cách điệu. Đầu tám hàng trụ cột và đầu kèo được chạm, trang trí tinh xảo. Ngoài kiến trúc bên trong, chùa Thập Tháp còn làm du khách ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng khu vườn tháp cổ với 24 bảo tháp lớn nhỏ mang hình thái kiến trúc của nhiều thời khác nhau.
Di vật trong chùa
Như nhiều ngôi chùa ở Đàng Trong, chùa Thập Tháp thờ Tam thế Phật, hai bên thờ Tôn Giả A Nan, Ca Diếp, Quán Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng; chùa còn thờ Thập Bát La Hán và Thập điện Minh Vương, vị Hộ pháp cùng với tượng của các Tổ sư Đạt-ma và Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở hai bên vách tả hữu. Các tượng này đều được tạc dưới thời thiền sư Minh Lý trụ trì. Chúng là những tác phẩm độc đáo về nghệ thuật và còn mang nét dung dị đời thường. Nụ cười, ánh mắt của mỗi pho tượng đều hàm chứa lý thuyết về cõi nhân sinh, cuộc sống và sự vĩnh hằng.
Hai đầu hành lang đặt đại hồng chung (chuông lớn) và đại cổ (trống bát nhã). Ngoài ra, chùa còn có đôi câu đối do chính chúa Nguyễn Phúc Chu viết ban vào năm 1691 và ba tạng kinh giấy khổ rộng, chữ to bằng ngón tay út. Bộ kinh hết sức cổ, có lẽ được Thiền sư Nguyên Thiều thỉnh từ Trung Hoa nhân lúc phụng mệnh chúa Nguyễn về nước vào cuối thế kỷ XVII. Đó thực sự là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Tấm biển Sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự do Minh vương ban đến 130 năm sau lại được hòa thượng Mật Hoằng trùng khắc năm 1821 và treo giữa ngôi chính điện.
Trong tất cả các chùa chiền ở miền Trung được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn thì chùa Thập Tháp ở Bình Định là ngôi chùa cổ nhất thuộc phái Lâm Tế. Năm 1990, chùa Thập Tháp Di Đà được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích văn hóa - lịch sử cấp quốc gia.
(DT st)
Xem online : KHÁI QUÁT VỀ THIỀN SỬ