Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > PHẬT GIÁO GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TRUNG QUỐC
PHẬT GIÁO GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TRUNG QUỐC
Chủ Nhật 4, Tháng Sáu 2023, bởi
Mọi người đều biết, văn hóa và ngôn ngữ là hai yếu tố gắn chặt với nhau không thể chia cắt. Tôn giáo là hiện tượng văn hóa phổ biến của loài người, vì thế tôn giáo gắn liền với ngôn ngữ. Để có thể tồn tại và phát triển, các tôn giáo lớn đều hết sức cố gắng dùng ngôn ngữ để truyền bá, giải thích và thực hành giáo lý, do đó tôn giáo có tác dụng to lớn đẩy mạnh phát triển ngôn ngữ. Lịch sử ngôn ngữ các nước đều cho thấy như vậy.
Các tôn giáo lớn đều có ngôn ngữ riêng của mình, tức ngôn ngữ tôn giáo (Religious language). Ngôn ngữ tôn giáo là các hình thức ngôn ngữ diễn đạt niềm tin và tình cảm tôn giáo, gồm có giới mệnh, tín điều, phán xét đạo đức, cầu nguyện, ca tụng. Đó là một loại phương ngữ xã hội, tuy nó được chế biến và xây dựng trên nền tảng ngôn ngữ toàn dân nhưng ngôn ngữ tôn giáo có nhiều điểm khác với ngôn ngữ toàn dân.
Đạo Phật là tôn giáo lớn ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ 6 5 trước Công nguyên. Theo thời gian, Phật giáo dần dần phát triển rồi trở thành quốc giáo, đồng thời ngôn ngữ của Phật Giáo cũng từ chỗ chỉ là phương ngữ, tục ngữ, thổ ngữ mà chuyển biến thành thứ Phạn Ngữ trang nhã; ngôn ngữ viết trong kinh sách Phật Giáo dần dần chuyển thành Phạn Văn tiêu chuẩn. Về sau Phật Giáo lan truyền ra nước ngoài, ngôn ngữ Phật Giáo hòa nhập với ngôn ngữ các địa phương tiếp nhận Phật Giáo, đồng thời có ảnh hưởng sâu sắc tới ngôn ngữ địa phương đó.
Vào khoảng đầu Công nguyên, Phật Giáo từ Ấn Độ truyền tới Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tiếp nhận một tôn giáo lớn của dân tộc khác. Trung Quốc thủa xưa là một xứ sở đóng kín hàng nghìn năm không tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Vì thế khi tiếp nhận Phật Giáo, người Trung Quốc không chỉ tiếp nhận một tôn giáo mà trên thực tế tiếp nhận cả một nền văn hóa lớn ngoại nhập. Ấn Độ có nền văn minh phát triển sớm không thua kém gì văn minh Trung Hoa. Ít lâu sau khi du nhập Trung Quốc, Phật Giáo trở thành một trong ba tôn giáo lớn của nước này (hai tôn giáo còn lại là Nho giáo, Đạo giáo). Sự hội nhập đó đã làm cho các lĩnh vực tôn giáo, tư tưởng, văn học nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, kể cả phong tục... của người Trung Quốc đều chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Ấn Độ. Đặc biệt Phật Giáo mang theo những triết lý nhân sinh mới lạ với người Trung Quốc, như tư tưởng Chúng sinh bình đẳng và nhất là thuyết Nhân Quả đã tác động rất sâu sắc tới đời sống văn hóa xã hội Trung Quốc.
Với tư cách là ngôn ngữ Phật Giáo, Phạn ngữ đã có ảnh hưởng lớn đối với Hán ngữ nói riêng và với ngữ hệ Hán-Tạng nói chung. Phạn ngữ là một ngôn ngữ cổ xưa nhất ở Ấn Độ, thuộc ngữ hệ Ấn-Âu. Các kinh điển Phật Giáo đều viết bằng chữ Phạn (Sanskrit), là loại chữ biểu âm, sử dụng chữ cái. Hán ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng. Hán ngữ có đặc điểm là phần ngữ âm tương đối nghèo, có rất ít âm tiết, khiến cho Hán ngữ tồn tại cực nhiều từ đồng âm, vì thế người Hán phải sử dụng loại chữ viết biểu ý, không biểu âm, không sử dụng chữ cái, bởi lẽ chỉ loại chữ này mới phân biệt được các từ đồng âm. Thứ chữ viết ấy có hình vuông độc đáo khác hẳn các loại chữ viết còn lại trên thế giới, về sau được gọi là chữ Hán.
Theo nghiên cứu của giới ngôn ngữ học Trung Quốc, sau khi Phật Giáo truyền vào Trung Quốc, ngôn ngữ Phật Giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ và tích cực tới ngôn ngữ nước này, góp phần hoàn thiện và phát triển Hán ngữ. Dưới đây trình bày sơ qua một số biểu hiện ảnh hưởng đó.
1. Ảnh hưởng trong lĩnh vực ngữ âm:
Trong đời sống ngôn ngữ ở Trung Quốc thời xưa, nói chung người ta chỉ chú trọng phần chữ viết, coi nhẹ phần ngữ âm. Đó là do Trung Quốc đất rộng người đông, mỗi địa phương nói một thứ tiếng (phương ngữ) khác nhau, nghe không hiểu nhau. Để giao tiếp với nhau, không thể dùng tiếng nói mà chỉ có cách dùng chữ viết. Chữ Hán là loại chữ biểu ý, có thể đọc bằng các phương ngữ khác nhau, vì thế nó trở thành chữ viết chung của tất cả những người nói các phương ngữ khác nhau của Hán ngữ, nhờ đó những người nói phương ngữ khác nhau ấy vẫn có thể giao tiếp với nhau bằng chữ viết (bút đàm).
Phạn ngữ của người Ấn Độ coi trọng âm đọc, hình thành “âm vận học 音韵学” chuyên nghiên cứu về ngữ âm, là ngành khoa học Trung Quốc chưa có. Phật Giáo đã đưa âm vận học vào Trung Quốc. Giới tăng sĩ Trung Quốc rất quan tâm tới tri thức và nguyên lý của âm vận học Phật Giáo. Các nhà ngôn ngữ Trung Quốc cho rằng sự hình thành 4 thanh điệu trong Hán ngữ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ Phật Giáo. m đọc chữ Hán gồm 3 bộ phận cấu thành là Thanh, Vận và Điệu. Thời Nam Bắc triều, khi làm thơ hoặc trong khẩu ngữ đời thường, người ta ưa dùng song thanh, điệp vận 双声叠韵. Trải qua quá trình lâu dài đọc kinh, tụng kinh bằng Phạn ngữ, giới tăng sĩ đã vận dụng nguyên lý Tất Đàn của Phạn ngữ vào việc làm thơ, qua đó hình thành 4 thanh điệu “bình, thướng, khứ, nhập 平、上、去、入” trong Hán ngữ.
Ngôn ngữ Phật Giáo có cống hiến to lớn về mặt ghi chú âm đọc chữ Hán – một lĩnh vực trước đó người Trung Quốc chưa có nhận thức. Sách “Thông chí - Nghệ văn lược” của Trịnh Tiều viết: “Thiết vận chi học, khởi tự Tây vực”. Nghĩa là phương thức chú âm đầu tiên của Hán ngữ — phương thức “Phiên thiết” [phản thiết 反切] có nguồn gốc từ Tây vực, tức Ấn Độ, nơi ra đời Phật Giáo cùng ngôn ngữ Phật Giáo. Trong quá trình truyền bá Phật Giáo vào Trung Quốc, các tăng sĩ Ấn Độ buộc phải học Hán ngữ và chữ Hán. Khi đó dĩ nhiên họ phải đọc được âm của từng chữ Hán, muốn thế họ phải tìm cách ghi được âm đọc, tức biết cách ghi chú âm. Phiên thiết là cách ghi chú âm chữ Hán đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc.
Ngoài ra, ngôn ngữ Phật Giáo còn tăng tốc tiến trình “song âm tiết hóa” các từ vựng Hán ngữ. Trước đó, hầu như toàn bộ từ vựng Hán ngữ đều là “đơn âm tiết, monosyllable”, tức mỗi từ chỉ có một âm tiết. Kinh Phật Giáo đưa vào Trung Quốc nhiều từ vựng có 2 âm tiết (disyllable, song âm tiết). Ví dụ 7750 từ trong “Kinh Pháp hoa - Tỉ dụ phẩm” có khoảng 1500 từ song âm tiết, chiếm khoảng 19%. Trong quá trình phiên dịch kinh Phật Giáo sang Hán ngữ, giới tăng sĩ Trung Quốc đã thực hiện song âm tiết hóa nhiều từ ngữ, ví dụ nhân duyên, tư lượng, nhân quả v.v...
2. Ảnh hưởng trong lĩnh vực từ ngữ:
Từ ngữ trong ngôn ngữ Phật Giáo chủ yếu là từ ngữ viết kinh sách. Các từ vựng trong ngôn ngữ Phật Giáo đều phát triển từ ngôn ngữ dân gian nhưng lại khác rõ rệt với ngôn ngữ dân gian. Điều đó phụ thuộc vào lịch sử: Phật Giáo phát triển từ một tôn giáo dân gian dần dần trở thành tôn giáo của tầng lớp trên, khi ấy phần lớn từ ngữ là từ vựng điển nhã (văn ngôn) và thuật ngữ chuyên môn. Những thuật ngữ chuyên môn này là tiêu chí làm cho ngôn ngữ Phật Giáo khác với ngôn ngữ nói chung. Trong quá trình phiên dịch và giảng giải kinh sách Phật Giáo, giới tăng sĩ Trung Quốc đã hấp thu và sáng tạo nhiều từ mới, làm giàu đáng kể kho từ vựng cơ bản của Hán ngữ.
Có thể phân loại như sau: a) Trực tiếp hấp thu các từ ngữ Phật Giáo trong Phạn văn. Ví dụ các từ dịch âm như bát nhã (prajna), du già (yoga), Bồ Tát (Bodhisattva). Sách “Phiên dịch danh nghĩa tập” của tăng sĩ Pháp Vân đời Tống thu gom được khoảng 2000 từ ngữ Phật Giáo dịch âm từ tiếng Phạn. Thời nay, “Từ điển từ ngoại lai Hán ngữ” của Lưu Chính, Cao Danh Khải gom được 1050 từ ngữ Phật Giáo Phạn ngữ.
b) Từ ngữ kiểu “Phạn + Hán”, chẳng hạn kiểu “Từ dịch âm + từ Hán” như: Phật điển, thiền sư, v.v... hoặc kiểu “Chữ dịch âm mới tạo + từ Hán”, như ma (mra) quỷ, đàn (dharma) hoa, v.v..., hoặc kiểu “Từ dịch ý + Hán dịch”, như tâm (citta) điền, Kim cương (vajra) bất hoại thân, v.v...
c) Xuất hiện nhiều thành ngữ Phật Giáo, chẳng hạn các thành ngữ đến từ các truyện kể: Thiên nữ tán hoa, Bộ bộ sinh liên; khái quát giáo lý: Lục căn thanh tịnh, Nhất trần bất nhiễm; hàm chứa ngụ ý: Đàn hoa nhất hiện, v.v... Ngoài ra còn có một bộ phận thuật ngữ chuyên dùng như Cực lạc thế giới (nơi chúng sinh không còn phải chịu mọi nỗi khổ của cuộc đời, cực kỳ sung sướng), Tà ma ngoại đạo (loại chúng sinh có lòng ác, làm hại chúng sinh khác, phá đạo của Đức Phật) v.v...
d) Xuất hiện các ngạn ngữ Phật Giáo, như: Cứu nhân nhất mệnh, thắng tạo thất cấp phù đồ (Cứu sống một người còn hơn xây bảy cấp phù đồ; Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người); Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật (Buông con dao đồ tể xuống, đứng ngay đó mà thành Phật). Ở đây Phật là người đã giác ngộ giáo lý đạo Phật.
Tóm lại, Phật Giáo đã có ảnh hưởng lớn tới Hán ngữ, nếu Phật Giáo không du nhập Trung Quốc thì kho từ ngữ của người Trung Quốc không thể phong phú như hiện nay.
Nhà Phật học nổi tiếng Trung Quốc Triệu Phác Sơ (1907 – 2000, nhiều năm là Hội trưởng Hội Phật Giáo Trung Quốc) nói: “Ngôn ngữ là loại văn hóa phổ biến nhất, trực tiếp nhất. Rất nhiều từ ngữ hàng ngày chúng ta dùng như thế giới, thực tế, bình đẳng, hiện hành, sát na (một thoáng, tiếng Phạn: Ksana), thanh quy giới luật (các quy tắc và giới luật mà tất cả tăng ni đều phải tuân theo), tương đối, tuyệt đối đều có gốc là từ ngữ Phật Giáo. Nếu thực sự hoàn toàn từ bỏ văn hóa Phật Giáo thì e rằng ngay cả chuyện nói năng hàng ngày cũng chẳng thể làm được.”
Nguyễn Hải Hoành
Buddhist Impact on Chinese Language
(BTV: NCC 04/06/2023)