Trang nhà > Lịch sử > Trung đại > Đoàn Nhữ Hài: danh vọng và nỗi hàm oan
Đoàn Nhữ Hài: danh vọng và nỗi hàm oan
Thứ Sáu 5, Tháng Mười Hai 2008
Muốn đánh giá đúng một con người thì thực sự phải dựa vào việc làm của họ. Nhưng để chọn được người có thể đảm đương được những công to việc lớn trong tương lai, một thủ lĩnh cần phải có con mắt xanh "anh hùng đoán giữa trần ai", không phải một cách vu vơ, vô cớ mà trên cơ sở những cảm nhận ban đầu qua những câu nói, qua cách ứng xử đời thường.
Những vị minh quân thời Trần như vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông... đã có được "con mắt xanh" ấy và vì thế, dưới thời họ trị vì, nhiều anh hùng và nhân sĩ đã quy tụ về triều đình, góp phần làm nên những sự nghiệp hiển hách. Câu chuyện về danh thần Đoàn Nhữ Hài sau đây là một minh chứng về linh cảm xuất sắc của những vị vua hiền về người tài trong thiên hạ.
Đoàn Nhữ Hài quê ở Gia Lộc, Hải Dương. Ông sinh năm Canh Thìn 1280. Tương truyền, ngay từ nhỏ ông là một người cực kỳ hiếu học, tay không lúc nào rời khỏi sách. Đến tuổi thiếu niên, lên kinh đô, Đoàn Nhữ Hài càng miệt mài sôi kinh nấu sử, lắm lúc đọc sách mải mê đến quên cả giời đất xung quanh.
Và chính trong một lần mê mải đọc sách như thế, ông tình cờ được gặp vua Trần Anh Tông và chính cuộc gặp gỡ ấy đã làm thay đổi đời ông một cách căn bản.
Chuyện xảy ra vào tháng 5 năm Kỷ Hợi 1299. Đó là khi vua Trần Anh Tông lên ngôi được khoảng 6 năm (từ 1293). Một hôm, Thượng hoàng (vua Trần Nhân Tông) từ phủ Thiên Trường về Thăng Long, lại đúng lúc nhân hôm rỗi việc, vua Trần Anh Tông cùng bề tôi uống rượu xương bồ tới say khướt.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), về tới kinh sư, Thượng hoàng thả bước đi dạo khắp các cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Khi cung nhân dâng bữa, không thấy vua Trần Anh Tông đâu, Thượng hoàng rất lấy làm lạ.
Tuy nhiên, lần này vì say quá nên khi cung nhân vào trong nội đánh thức, nhà vua vẫn không sao mở mắt ra được. Thế là Thượng hoàng nổi trận lôi đình, "lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội" (ĐVSKTT).
Đến giờ Mùi, vua Trần Anh Tông mới dứt cơn say, tỉnh dậy, hay chuyện mới lấy làm hoảng hốt. Nhìn quẩn nhìn quanh không thấy những bề tôi thân tín đâu cả. Vua lật đật ra khỏi cửa cung (lúc này cũng không có ai coi giữ), nhằm hướng sông Nhị cho đỡ bức bối, tới cửa chùa Tư Phúc, thấy một thư sinh mặt trẻ măng đang ngồi cắm cúi đọc sách. Thấy lạ, vua nói:
— Vừa rồi trẫm vì say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến trước mặt ngài tạ tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu.
Đoàn Nhữ Hài đứng trước mặt vua, trong chốc lát đã soạn xong tờ biểu, lời lẽ đầy ân hận và cảm động. Vua bèn lấy thuyền nhẹ nhằm hướng Thiên Trường đi ngay, cho Đoàn Nhữ Hài theo mình. Tới rạng sáng hôm sau thì tới. Vua sai Đoàn Nhữ Hài vào phủ dâng biểu cho Thượng hoàng. Thượng hoàng giận, giả bộ không thèm để ý đến, mặc Đoàn Nhữ Hài cứ quỳ trước cửa điện.
Chiều hôm ấy thời tiết xấu, trời bỗng nhiên nổi mưa to gió lớn. Đoàn Nhữ Hài vẫn quỳ nguyên tại chỗ không nhúc nhích. Động lòng, Thượng hoàng sai nội nhân ra cầm tờ biểu tạ tội vào. Đọc xong, Thượng hoàng cho gọi vua Trần Anh Tông tới và nói:
— Trẫm xem lời lẽ trong tờ biểu rất hay, rất khéo, rất hợp lòng trẫm. Chắc không phải lời lẽ của con, vậy ai đã viết cho con vậy?
Vua Trần Anh Tông tâu, đó là Đoàn Nhữ Hài. Thượng hoàng gật gù tỏ ra tâm đắc rồi lại nghiêm mặt nói:
— Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?
Vua rập đầu tạ tội. Thượng hoàng cho gọi Đoàn Nhữ Hài vào, nhìn thấy gương mặt còn búng ra sữa của kẻ học trò lạ, tấm tắc khen. Rồi Thượng hoàng xuống chiếu cho Trần Anh Tông lại vẫn làm vua. Các quan cũng được về triều như cũ.
Trở về kinh sư, vua Trần Anh Tông ngay lập tức phong Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử Trung tán (chức quan đứng hàng thứ hai ở Đài Ngự sử, có nhiệm vụ can gián, đàn hặc nhà vua). Khi ấy ông chưa tới 20 tuổi. Một thư sinh trẻ tuổi chưa hề đỗ đạt gì, lại không phải hoàng thân quốc thích, mà lại được đưa lên một cương vị trọng yếu như vậy, bị thiên hạ ghen tị, đố kị thì cũng không có gì lạ.
Đoàn Nhữ Hài cũng hiểu điều này nên khi nghe có kẻ đàm tiếu, chế giễu ông, thì ông chỉ cười chứ không thèm nổi giận.
Là cận thần của vua, nhất cử nhất động gì trong hoàng cung đều biết rõ, Đoàn Nhữ Hài đã không lạm dụng chức vụ để lo tư lợi mà hết lòng phục vụ cho triều đình. Vì thế, vua Trần Anh Tông ngày càng tín nhiệm ông hơn. Tới năm Quý Mão 1303, Đoàn Nhữ Hài được phong làm Tham tri chính sự.
Cũng không phải tự nhiên ông được ngồi vào vị trí mới này mà trước đó ông đã lập được một công trạng quan trọng trong ngoại giao: chỉ dùng lý lẽ khôn ngoan mà tạo dựng được một bước tiến mới trong quan hệ với Chiêm Thành. Sách ĐVSKTT chép:
"Vua sai Nhữ Hài đi sứ Chiêm Thành. Nhữ Hài xin yết kiến Thượng hoàng ở chùa Sùng Nghiêm, núi Chí Linh, suốt ngày không được gặp. Một lát sau, pháp giá ra chơi. Nhữ Hài xin bái yết. Thượng hoàng nói chuyện với Nhữ Hài có đến một giờ. Khi trở về, Thượng hoàng bảo tả hữu:
— Nhữ Hài đúng là người giỏi, được Quan gia sai khiến là phải.
Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Đến khi Nhữ Hài tới, liền bưng ngay chiếu thư để lên trên án và nói với chúa Chiêm:
— Từ khi sứ thiên triều mang chiếu thư của thiên tử sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã, rồi mới tuyên đọc sau.
Rồi lập tức hướng vào tờ chiếu mà lạy. Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ là lạy chiếu thư thì về lý là thuận, nhưng sứ tiết cũng không phải khuất".
Cũng từ đấy, những sứ thần Đại Việt đi sang Chiêm Thành đều không phải lạy chúa Chiêm nữa. Vua Trần Anh Tông hay chuyện, rất khen ngợi Đoàn Nhữ Hài và thăng chức cho ông ngay.
Tới tháng 12 năm Giáp Thìn 1304, Đoàn Nhữ Hài lại được phong chức Khu mật viện sự. Trước đó, trong triều nhà Trần những cương vị như vậy thường chỉ giao cho người trong hoàng tộc. Sách ĐVSKTT bình về vụ thăng chức này:
"Vua đối với người tôn thất như Bảo Hưng (không nói rõ tên) thân yêu hết mực nhưng không trao cho việc chính sự, vì không có tài. Còn như Nhữ Hài chỉ là một nho sinh thôi, nhưng vì có tài nên không ngại trong việc ủy dụng nhanh vọt".
Khả năng biện bác và lập luận đầy sức thuyết phục cùng sĩ khí không gì có thể khuất phục được của Đoàn Nhữ Hài đã giúp ông hoàn thành nhiều nhiệm vụ khó khăn khác mà vua Trần Anh Tông giao cho ông. Năm 1307, châu Ô và châu Lý được nhập vào nước ta thành châu Thuận, châu Hoà nhưng lòng dân bản địa vẫn có phần còn chưa thuận.
Đoàn Nhữ Hài đã được vua cử đi phủ dụ dân chúng. Và ông đã làm rất tốt việc này, bằng lời hay lẽ phải và cả bằng những việc làm nhân nghĩa.
Trong cuộc dấy binh chinh phạt Chiêm Thành năm Tân Hợi 1311 của vua Trần Anh Tông, Đoàn Nhữ Hài cũng đã góp phần quan trọng để giành lấy thắng lợi mà không hề tốn xương máu. Số là chúa Chiêm Thành khi ấy là Chế Chí hay có ý phản trắc nên Đại Việt không thể không có hành động răn đe để phòng hậu hoạ.
ĐVSKTT viết: "Trước đó, Chế Chí sai người sang cống. Người ấy là trại chủ Câu Chiêm. Vua sai Đoàn Nhữ Hài bí mật ước hẹn với hắn. Đến khi vua đích thân đi đánh, đến phủ Lâm Bình chia quân làm ba đường: Huệ Vũ Vương Quốc Chuẩn theo đường núi, Nhân Huệ Vương Khánh Dư theo đường biển, vua tự dẫn sáu quân theo đường bộ; thủy bộ cùng tiến. Lấy Đoàn Nhữ Hài làm Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước.
Vua đến Câu Chiêm dừng lại. Nhữ Hài sai người tới chỗ trại chủ, nói rõ ý yêu cầu quốc chủ ra hàng. Trại chủ báo cáo với Chế Chí. Chế Chí nghe theo, đem gia thuộc đi đường biển tới hàng. Nhân Huệ Vương đem quân đuổi theo. Nhữ Hài lập tức chạy thư tâu rằng: "Khánh Dư muốn cướp công vua".
Vua giận lắm, sai bắt giám quân của Khánh Dư là Nguyễn Ngỗi đem chặt chân. Nhân Huệ sợ, sai ngự doanh tạ tội nói rằng:
— Thần sợ nó đến giữa biển lại đổi bụng khác, nên mới chặn đằng sau thôi.
Vua nguôi giận, sai chia quân đi tuần các bộ lạc. Người Chiêm tụ tập định đánh vào ngự doanh. Tiếng voi đã gần, quân sĩ có vẻ lo sợ. Được vài hôm, quân của Huệ Vũ Vương tự tìm đường mà tới, người Chiêm chạy tan. Trận đánh không mất một mũi tên mà Chiêm Thành bị dẹp, đó là công sức của Nhữ Hài".
Nhìn ở bất cứ góc độ nào, cũng phải thấy Đoàn Nhữ Hài là một danh thần tin cậy và nhiều công trạng đối với triều Trần. Tuy nhiên, ông đã kết thúc sự nghiệp của mình không phải với một chiến công xứng đáng. Năm Ất Hợi 1335, dưới triều vua Trần Hiến Tông, biên giới phía Tây bị Ai Lao quấy nhiễu.
Quân Ai Lao còn xâm phạm cả ấp Nam Nhung thuộc đất Nghệ An. Lúc này, Đoàn Nhữ Hài đang chỉ huy quân Thần Vũ và Thần Sách, kiêm chức Kinh lược Địa sứ Nghệ An nên đã làm đốc tướng khi Thượng hoàng (vua Trần Anh Tông) thân chinh đi đánh Ai Lao. Sách ĐVSKTT viết:
"Trước đó, Thượng hoàng đã bàn việc đánh Ai Lao mà không đi được. Đến đây lại bàn việc thân chinh, nhưng bị đau mắt. Có người xin hoãn việc xuất quân. Thượng hoàng nói:
— Năm ngoái định thân chinh rồi không được, năm nay lại vì đau mắt mà hoãn xuất quân, thiên hạ sẽ bảo ta là nhát, nếu giặc phương Bắc xâm lấn thì ta còn nhờ cậy vào đâu?
Bèn quyết ý thân chinh, ít lâu sau mắt cũng khỏi. Đến Nghệ An bệnh tái phát. Thượng hoàng ngồi thuyền cố gượng mà đi, khi lên bộ thì khỏi".
Đoàn Nhữ Hài, cũng theo sách ĐVSKTT, "đoán chừng Ai Lao giữ đất Nam Nhung, quân ít và yếu, đánh nhất định thắng". Và ông đã định sau khi thắng trận, sẽ bắt được tù binh theo dòng sông La xuôi xuống, để phô trương sức mạnh Đại Việt với thiên hạ.
Thế nhưng, người định, còn trời quyết. Không may đến ngày giao chiến, mây mù che tối, quân Ai Lao đã phục sẵn voi ngựa, hai mặt giáp công nên quân của Đoàn Nhữ Hài cùng đốc tướng của mình
đã sa xuống nước chết đuối tới quá nửa.
Thế nhưng, chết chưa phải là hết đau. Có lẽ Đoàn Nhữ Hài cũng khó ngậm cười nơi chín suối khi nghe được lời của Thượng hoàng nói vì tin vào những đồn đại cho rằng ông đã thất trận chỉ vì muốn lập kỳ công. Làm tôi trung đôi khi cũng dễ bị hàm oan nghìn thuở.
Thượng hoàng còn than: "Thế mới biết sự mong muốn của con người không thể vượt quá giới hạn được!"
Võ Hoàng (CAND)