Blog Đông Tác

Nguyễn Chí Công, CFLS

Trang nhà > Khoa học > Ngôn ngữ > TỴ, RẮN (PHẦN 7)

NGUỒN GỐC VIỆT CỦA TÊN 12 CON GIÁP

TỴ, RẮN (PHẦN 7)

Thứ Hai 19, Tháng Giêng 2009

Tỵ/Tị là con giáp thứ 6 trong 12 con giáp, dùng để chỉ thời gian như giờ giấc (từ 9 đến 11 giờ sáng), hay tháng Tư … Cũng như dùng để chỉ không gian như phương Đông Nam (gần Nam hơn, giữa SE và SSE). Chữ và âm Tỵ rất khác biệt với âm rắn bây giờ, hay với các dạng cổ phục hồi của rắn – ngay cả khi khảo sát các dạng của phương ngữ Trung Hoa (TH) – có lẽ đây là một trong những lý do khiến các học giả trước đây như Paul Benedict, Jerry Norman … không thể liên hệ trực tiếp Tỵ với rắn, xà. Tuy nhiên, với nhiều dữ kiện ngôn ngữ được công bố gần đây và nếu ta nhìn rộng ra hơn qua các ngôn ngữ thuộc họ Môn-Khme, tương quan của âm Tỵ và rắn sẽ trở nên rõ nét. Dạng Tỵ đã nhập ngược vào tiếng Việt ta khoảng thời Đường Tống về sau (biến âm s-t), nên phải truy nguyên từ dạng sì/zi/cih/chi của tiếng TH. Thí dụ như dạng cổ phục hồi *psi: của tiếng tiền Pearic1 (proto-Pearic) dựa trên tiếng Chong (si: là con rắn), tiếng Saoch (phsi: là con rắn). Liên hệ Tỵ và rắn do đó không dễ nhận ra như Mão/Mẹo – mèo, Ngọ - ngựa, Tý/*chút - chuột … mà ta phải dựa vào các ngôn ngữ trong họ Môn-Khme hay Nam Á như Hợi/*gỏi – cúi (heo, tiếng Mường). Phần này sẽ đi sâu vào cách đọc và cách viết của Tỵ sau khi nhìn tổng quát hình ảnh con rắn trong hai nền văn hoá Trung Hoa và Việt Nam để cho thiết lập các mối dây liên hệ. Số đứng sau âm vận chỉ thanh điệu khác với số (superscript) chỉ phụ chú và phê bình thêm.

1. Giới thiệu tổng quát

Tỵ là từ Hán Việt (HV), giọng Bắc Kinh (BK) bây giờ là sì theo phiên âm (pinyin) so với giọng Quảng Đông (QĐ) zi6, Hẹ là cih6, cih5, sii6, gi5, su5, chi7 … và Minnan (Đài Loan) là chi7. Tỵ có các nghĩa là bào thai, chỉ thời gian/không gian như đã nói trên và một họ người TH... Biểu tượng của chi thứ sáu Tỵ là con rắn, ta hãy xem qua các thành ngữ và tục ngữ trong văn hoá TH cho thấy hình ảnh của rắn; Thường là có hàm ý xấu hay tiêu cực cũng như hình ảnh rắn trong văn hoá Việt.

Xà khẩu phong châm : độc như miệng rắn hay ong chích – so sánh với câu khẩu phật tâm xà (hay phật khẩu tâm xà) thường gặp hơn trong văn hoá Việt Nam (VN) hơn. Xà thiệt (lưỡi rắn) : hàm ý tâm địa ác độc hay làm hại kẻ khác.

Xà hiết tâm trường : tâm địa ác độc (hiết/yết là con bò cạp, con rết – tâm địa rắn rết)

Huỷ dịch : rắn độc và tắc kè, chỉ người ác độc

Huỷ vực : con rắn và con sâu có nọc độc, chỉ người ác độc (‘sâu độc’)

Hoạ xà thiêm túc : vẽ rắn thêm chân, hàm ý dư thừa, không cần thiết – so với thành ngữ xà túc (chân rắn) - rất ít gặp trong văn hoá VN từ thời gian dùng chữ La-Tinh.

Hổ đầu xà vĩ : đầu hổ đuôi chuột, hàm ý khởi đầu rất hay nhưng kết thúc rất dở - ta thường gặp câu nói đầu voi đuôi chuột trong văn hoá VN hơn.

Xà hành : bò sát đất như rắn, hàm ý tình hình bất ổn – xà vô đầu bất hành : rắn không đầu chạy không được (hỗn loạn như rắn mất đầu).

Xà thôn tượng : rắn ăn voi, hàm ý quá tham lam.

Ngưu quỷ xà thần : chỉ các thành phần không tốt trong xã hội – xà thỉ (heo và rắn) chỉ các thành phần xấu cũng như phong thỉ trường xà (heo rừng dữ tợn và rắn độc dài).

Bôi công xà ảnh : ảnh của cái cung trong chén như hình con rắn, hàm ý rất đa nghi, để ý thứ tự chữ có thể là xà ảnh bôi công. Cùng nghĩa đa nghi là câu xà cung thạch hổ - thấy cung mà lại nghĩ đến rắn (đều có hình dáng cong cong). Trong ca dao TH còn truyền lại rằng “rắn hay dây thừng” cho thấy người bị rắn cắn một lần thấy sợ (nhát gan) khi thấy dây thừng2 vì hình thù cong cong giống như rắn.

Xà đầu thử nhãn : đầu rắn mắt chuột, ý nói người gian xảo

Dẫn xà xuất động : dẫn (dụ) rắn ra khỏi hang (ổ).

Đả xà đả thất thốn : đụng vào chỗ yếu (nhược), đánh vào chỗ hiểm (yếu).

Đả thảo kinh xà : động vào cỏ làm rắn giật mình, cẩn thận quá đáng làm kẻ thù để ý.

Xà trấp tồn thân : rắn núp để giữ mình - thờI gian cần phải ẩn mình không ra mặt.

Viết tẩu long xà : chữ viết nhanh và dễ dàng. Hư dữ uy di (di HV hay yí BK là một cách đọc khác của xà) chỉ sự giả bộ nghe lời. Uy di còn có nghĩa là lấy lệ, qua loa …

Cường long bất áp địa đầu xà (cường long chỉ người có quyền, địa đầu xà chỉ tên ác ôn côn đồ), hàm ý người có quyền hành không chế ngự được kẻ ác ôn ở địa phương. Câu này cũng giống như câu ‘Rồng mạnh không ép rắn thổ địa’4 cho thấy rắn vẫn giữ uđuợc một vị trí dặc biệt của mình như là ‘vua một cõi’.

Rắn cũng hiện diện nhiều trong văn hoá dân gian VN : từ đôi rắn được chạm ở đền Gióng (Phù Đổng, Hà Nội) hay để chỉ sự may rủi

“Hễ đi gặp rắn thì may

Về nhà gặp rắn thì hay phải đòn”

Hoặc là “Rắn đến nhà chẳng đánh thì quái

Gái đến nhà chẳng chơi cũng thiệt”

Từ rắn được dùng một lần trong truyện Kiều :

“Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này” câu 2016 (Kiều)

Và ‘…Thẳng như rắn bò; Thao láo như mắt rắn ráo; Oai oái như rắn bắt nhái; Bạnh như cổ hổ mang; Cõng rắn cắn gà nhà; Lẩn như rắn mồng năm; Miệng hùm nọc rắn; Rắn già rắn lột, người già người cột đầu săng; Rắn rết bò vào, cóc nhái bò ra; Đuôi ong lưỡi rắn; Rắn đổ nọc cho lươn…” .

Qua các thành ngữ ca dao trên, ta thấy hai nền văn hoá TH và VN rất gần với loài rắn – nhưng mang tính chất tiêu cực nhiều hơn so với nền văn hoá Ấn Độ chẳng hạn. Nếu rắn (độc) có khả năng huỷ hoại thì naga (rắn Ấn Độ) có khả năng siêu phàm như thánh thần. Trong đạo Phật, Đại Xà (rắn ‘vĩ đại’, Mahanaga) là tên gọi những người đã siêu độ và không tái sinh (rebirth) như đức Phật Tổ …v.v… Tuy nhiên, qua văn hoá dân gian TH và VN, ta cũng thấy hình ảnh rắn đi chung với rồng như những điệu múa rồng rắn Lệ Mật3 (Gia Lâm), các ngôi đình ở xứ Đoài có những tổ hợp rồng rắn nghệ thuật, câu nói ‘rồng rắn lên mây’, chiêm mộng có cả rồng và rắn như ‘long xà nhập môn đắc tài, long xà nhập táo hữu quan chí, long xà sát nhân đại hung…’; Các truyền thuyết địa phương về rồng rắn và tiên …v.v… Văn hoá TH thời Thượng Cổ cho thấy hình vẽ con rắn và con rồng rất giống nhau, theo “Luận Hành’ thì ‘…rồng có lúc giống rắn, rắn có khi giống rồng…’4

Nhìn qua văn hoá phương Tây, ta thấy tiếng Anh, Pháp dragon (con rồng) có gốc La Tinh draconem (con rắn, rồng), và Hi Lạp drakon (rắn, cá biển/seafish) cho thấy sự gắn bó của rồng rắn từ phương Đông sang phương Tây từ thuở xa xưa. Tương quan rồng rắn còn thấy trong vị thế gần bên nhau và chính giữa của hai loài này trong thứ tự 12 con giáp. Tại sao lại kế nhau (Thìn trước ngay Tỵ) như vậy? Liên hệ rồng rắn và tương quan ngữ âm rồng/long/lươn/trình – trăn/rắn - thằn lằn, thuồng luồng … sẽ được bàn luận sâu hơn trong phần viết về chi thứ 5 là Thìn/Thần.

Tóm tắt khi lướt qua hai văn hoá dân gian TH và VN là hình bóng con rắn đã in sâu vào tiềm thức của hai dân tộc, hay chính xác hơn là những dân tộc (như Mân Việt, tập đoàn Hoa Hạ …) cổ đại đã có tín ngưỡng thờ rắn rết như tôtem. Nhờ sự liên tưởng đến sâu bọ trong văn hoá dân gian (qua câu nói tâm địa ‘sâu độc’) mà ta có thể bắt đầu thiết lập mối tương quan giữa Tỵ và rết (loài sâu, trùng)10.

Trở lại với chữ Tỵ HV, viết bằng bộ kỳ, bộ thủ thứ 49 trong 214 bộ. Giống như 12 chữ viết cho 12 tên con giáp, chữ Tỵ được dùng làm thành phần hài thanh (HT) trong quá trình thành lập các chữ Hán; Tỵ (hay dĩ) viết bằng bộ thuỷ hợp với chữ Tỵ bên phải là sông Tỵ thuộc tỉnh Hồ Nam, hay là một dòng nước rẻ ngả khác rồi lại chảy vòng lại. Di HV, yí BK viết bằng bộ thổ hợp với chữ Tỵ bên phải, nghĩa là chiếc cầu, bờ. Tự HV, sì BK viết bằng bộ kỳ hợp với chữ Tỵ, nghĩa là thờ cúng, năm, thế hệ .. Di HV, yí BK viết bằng bộ thần hợp với chữ Tỵ bên phải là má, hàm (càm, cằm …còn viết bằng bộ hiệt). Chữ Tỵ còn thấy trong chữ bao (bộ bao hợp với chữ Tỵ) chỉ bào thai. Xà HV, shé BK viết bằng bộ trùng hợp với chữ tha5 HT, nghĩa là con rắn trong vốn từ TH hiện nay. Giọng BK có nhiều dạng như shé, chí, tuō, tuó, yé , yí … so với se4, ji4, se2 Quảng Đông, sa2, sha2, ri2, ji2, ji5 Hẹ, choa5 Minnan (Đài Loan) … nhưng để ý cách đọc yí (hay di HV) : có thể liên hệ đến dĩ (sông nhập lại). Đây là một mối dây liên hệ ngữ âm giữa xà (shé, yí BK) và Tỵ (yĭ, thành phần HT của sông Tỵ). Nên nhắc lại ở đây là cách cấu tạo chữ Hán dựa rất nhiều vào loại HT, cũng như cốt lõi của lý luận người viết về nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp.

2. Phụ âm đầu t- của Tỵ

Biến âm s-t hay sh- th- rất thường gặp khi so sánh tiếng HV và TH (giọng BK hiện nay). Nhiều tác giả6 trước đây đã phân tách liên hệ s-t thời Trung Cổ, kết quả cho thấy quá trình nhập vào tiếng Việt có hệ thống vào khoảng đời Đường Tống trở lại đây. Thêm vào đó là liên hệ s-t khi ta so sánh tiếng Việt và các ngôn ngữ láng giềng7 : tóc là xok (tiếng Khme, Bru, Mnông, Tà Ôi), xăk (Rơngao), usuk (Chứt), xok/xâk (Bahna), xoak (Gié Triêng), xaq (Brâu), , xôq (Semang), xuk (Poọng), xăk/thăk (Mường), chôk (Biat), xo (Kơho) .… So sánh tiếng Mường và Việt, ta vẫn thấy liên hệ s-t như sịt-thịt … cũng như liên hệ đồng đại trong tiếng Việt sẹo-thẹo, xoạc-toạc, xốn-thốn … Xem thêm bài viết về Thân (shēn BK, chi thứ 9) về tương quan s-t. Các điều này cho ta cơ sở giải thích sự liên hệ giữa Tỵ (HV) và sì (BK).

Giọng BK Hán Việt Việt
Sài tái cửa ải
táp vãi, rắc (nước)
Sàn tán tản ra, tan
Sān tam (số) ba
Sāng tang đám ma
Săng tảng (đá) tảng
Sàng táng mất
Shàn thiện lành
Shàng thương bàn thảo (thương thuyết)
Shàng thượng ở trên
Shăng thưởng ban cho
Shéng thằng (dây) thừng
Shī thi thơ, thư
Shí thì thời, giờ, chừ
Shŏu thủ đầu
tứ bốn
Sòng tống đưa,
chuyển
tục tục lệ, phong tục
Suō thoa (cái/con) thoi

…v.v…

William Boltz (1991) phục hồi âm Thượng Cổ của Tỵ (sì BK) là *sgiơgx để giải thích được các dạng khác nhau của Tỵ như si, sơ, gơ (tiếng Pu-Yi, xem bảng so sánh các tên gọi trong bài viết phần 2). Edwin Pulleyblank (1991) phục hồi âm Trung Cổ của Tỵ là *zi, so với dạng *dziơg của Bernhard Karlgren (1957) – xem các chi tiết về tài liệu trích dẫn phần này từ bài “Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp (phần 2)”.

3. Nguyên âm i/y của Tỵ và thanh điệu

Nguyên âm i/y của Tỵ phù hợp với nguyên âm i của giọng BK và QĐ bây giờ. Thanh nặng tương ứng với thanh thứ tư (4th tone, khứ) của giọng BK, cũng như thanh thứ ba (3rd tone, thượng) của giọng BK – cũng như thanh điệu của âm Hán Trung Cổ

Giọng BK Hán Việt Việt
Bèi bội trái lại, phản
Bàn biện lo liệu
Bào bạo bạo động, bạo lực, chơi bạo
đại lớn
đệ em
độ đơn vị đo góc
Fàn phạn cơm
Fèng phụng dâng, biếu
Hào hạo to lớn, nhiều
Jìng tịnh, tĩnh sạch
Luò lạc rơi, rụng
Màn mạn khinh (miệt)
nộ giân dữ
Shì thị chợ
Shèn thận (quả) thận, cật
Shù thụ/thọ cây
tại còn/sống
Zhù trợ đũa

…v.v…

4. Bàn luận về liên hệ Tỵ - rắn rít

Các dữ kiện ở trên cho thấy Tỵ đã nhập vào ngôn ngữ Việt khoảng thời Đường Tống về sau, phù hợp với những biến âm s-t và tương quan thanh điệu, cũng như cả hệ thống 12 con giáp. Mức độ trừu tượng đã lên cao khi không còn nhận ra được một liên hệ trực tiếp nào với tên gọi 12 con giáp trong tiếng TH, HV cũng như Việt. Các lý do dễ nhận ra là thời gian tính và những lý thuyết về ngũ hành, bói toán dựa trên hệ thống 12 con giáp đã phát triển rất mạnh mẽ vào thời Đường Tống. Thêm vào đó là cách dùng 12 con giáp để tính ngày giờ, năm tháng làm cho chúng trở thành một thứ ‘ngôn ngữ dặc biệt’ , những từ đóng vai trò quan trọng và có khi trở thành ‘linh thiêng’ : chúng là những tiếng hoá thạch (‘fossilised’ sounds) cho ta cơ hội phục hồi âm cổ. Nhìn qua tiếng Thái, năm Tỵ còn gọi là bpee ma seng – năm con rắn – seng là con rắn so với các dạng săn, sin của tiếng Mường; so với cách gọi bpee ma rong (năm con rồng) cho thấy sự vay mượn trực tiếp từ nhóm Việt-Mường.

4.1 Trong vốn từ tiếng TH hiện nay có một chữ rất hiếm8 là ty HV hay sī, yí BK viết bằng bộ trùng hợp với chữ ty HT. Để ý các cách đọc của tiếng Hẹ như sii1, ji2, ri2 … nghĩa là loài bò sát, côn trùng … Chữ ty/ly còn có thể viết bằng bộ trùng hợp với chữ lệ HT nghĩa là loài vật không cánh giống như con rết - chữ này rất ít gặp8 – xem thêm phần 4.3. Tiếng Mường Ruc có từ kasit là con rít (con rết, con rệt) – có lẽ còn tàn tích trong cách dùng ‘rắn rít’. Từ các dữ kiện trên, và từ cách viết chữ Tỵ (giống hình con rắn, rết) người viết đề nghị một nghĩa cổ của Tỵ là con rít9 hay *zit (giọng Bắc Bộ). Liên hệ đồng đại s-r phản ánh qua cách dùng siết-riết, sít-rít, sầu-rầu, sờ-rờ, xà-rà, súc-rúc, sầm-rầm, xẻo-rẻo …Vương Lộc trong “An Nam Dịch Ngữ - giới thiệu và chú giải” (1995) đề nghị âm cổ của răng là *săng, so với tiếng Mường Ruc kăsăng. Ngoài ra các phụ âm cuối tắc t/c/p thường có khuynh hướng mất đi trong giọng BK, Ngô (Thượng Hải)… để cho ra dạng *zi, phù hợp với dạng âm Hán Thượng Cổ *zji? theo tác giả William Baxter10. Phụ âm cuối tắc mất đi như trong các trường

Giọng BK Hán Việt Quảng Đông Hẹ Minnan (Đài Loan)
Guó quốc gwok3 kwet7 kok1
lực lik6, lik1 lit8 lat6
độc (hại) duk6 tuk8 tak8
Phật fat1 fut8 hut8
phục fuk6 fuk7 hok8
tục (lệ) zuk6 siuk8 siok8
mục (mắt) muk6 muk7 bak8
Bĕi bắc (hướng) bak1 bet7, biet7 pak1
Shí thập (mười) sap6 ship8, sip8 chap8
thất (bảy) cat1 cit7 chhit1
Zhí chất (lượng) zat1 zit7, chip7 chit1
Yuè Việt (Nam) jyut6 jat8, jet8 oat8

…v.v…

Tóm lại, ta có thể khôi phục âm Thượng Cổ của Tỵ là *zit (rít, rết), loài bò sát nguy hiểm còn lưu truyền qua câu nói ‘độc hại như rắn rít’, hay ‘rắn rồng ri’ … Không những thế, các di tích tìm thấy thời Tiên Tần còn cho thấy sâu bọ cũng từng là hình ảnh của các con giáp11. Trong vốn từ TH hiện nay có chữ tức HV ít thấy với tần số dùng là 12 trên 430747376 (đọc là jí BK) - viết bằng bộ trùng hợp với chữ tức HT – nghĩa là con rết, con dế, con chuồn chuồn…; Để ý cách đọc zik1 (QĐ) và zit7 (Hẹ) rất gần với âm rết giọng Bắc VN bây giờ. Do đó, loài rết cũng có thể đã là một trong 12 con giáp dùng làm vật tổ cho các dân tộc ở miền Nam TH. Ngoài cách viết/khắc cổ của chữ Tỵ cho thấy hình dạng uốn cong (xem trang cuối), chính tác giả Hứa Thận trong Thuyết Văn Giải Tự cũng đã từng nhận xét ‘..nó (tha, rắn) là giống côn trùng sinh ra từ loài sâu bọ, có hình dáng dài và uốn khúc…’12

4.2 Một nghĩa cổ của Tỵ là bào thai – có lẽ tượng hình cho thấy dạng nằm uốn cong của đứa bé trong bụng mẹ.

4.3 Một chữ hiếm8 thấy là thị/chi HV, đọc là shì BK si6 QĐ – nghĩa là (1) con thú hoang thuộc huyền thoại (2) con rắn. Chữ này viết bằng bộ khuyển hợp với chữ thị HT. Con thú hoang huyền thoại này cho thấy tính chất cổ đại của loài này, lúc mà ảnh hưởng của nhóm Bách Việt còn lớn mạnh ở miền Nam TH. Xem lại cách phát âm của xà HV, ta thấy các giọng đọc BK như shé, chí, tuó, tuō, yé, yí … và xem lại cách đọc của Tỵ là sì BK, zi6 QĐ, se5-su5-sii5-cih6-gi6 (Hẹ), chi7 (Minnan) ta có thể thành lập một liên hệ ngữ âm : đây là một vấn đề cần được khảo cứu chi tiết hơn.

4.4 Một chữ rất hiếm8 là lệ/ly HV đọc là sī, lì, lí BK so với su1, li5 (Hẹ) - viết bằng bộ trùng hợp với chữ lệ (đẹp) HT – nghĩa là loài vật không cánh giống như con rết. Chỉ có chữ lệ (đẹp) mới có các dạng biến âm là sī (Ty HV) như trên (so với Tỵ), còn các chữ khác với âm si BK thường tương ứng với ti, di, shi, zhi, tai … Chữ lệ (ly) này được dùng để phiên âm Cao Ly (Đại Hàn). Đây là một mối dây liên hệ cho thấy Tỵ có thể đã từng là loài bò sát (rết) mà từ từ bị đào thải11 trong vốn từ TH hiện nay. Thêm vào đó là chữ ly hiếm thấy - tần số dùng là 19 trên 365388752 - đọc là lí, lĭ BK, lei4 (QĐ), li2 (Hẹ) - viết bằng bộ ngư (cá) hợp với chữ lệ (đẹp), nghĩa là con lươn (lươnh, tiếng Mường). Chữ ly này thường đi chung với chữ man (con lươn) hay còn gọi là bạch thiện. Các phụ âm đầu lưỡi l, r rất dễ hoán chuyển cho nhau để từ dạng li- cho ra ri- và vẫn còn tàn tích trong thành ngữ ‘rồng rắn ri’; So sánh các cặp long-rồng, luyện-rèn, li-rời, liệt-rét, liêm-rèm, lân-rần, li-rào, la-rá … và liên-*ren-sen, lực-*rưc-sức, lạp-*rạp-sáp, lãng-rạng-sáng … đều cho thấy chuỗi li-ri-si có cơ sở giải thích.

4.5 Xem qua các ngôn ngữ láng giềng, ta nhận thấy tiếng Chong có từ si: nghĩa là con rắn1 – đây là vết tích của Tỵ trong các tiếng thuộc họ Môn-Khme/Nam Á. Nơi định cư bây giờ của người Chong (phía Nam nước Thái, Kampuchia) cho thấy là ảnh hưởng của phương Nam đã từng hiện diện trong các văn hoá, ngôn ngữ của vùng Đông Nam Á thời Thượng Cổ. Tuy nhiên, ảnh hưởng của phương Bắc (chính quyền tập trung) từ thời Tần, Hán và nhất là thời Đường, Tống đã đẩy lui các dân tộc này về các vùng cực nam, ra ngoài đảo xa (Đài Loan) hay lên miền cao (người Thượng)…. Điều này phản ánh rất rõ nét khi ta phân tích nguồn gốc của tên 12 con giáp.

5. Phụ chú và phê bình thêm

Bài này nên đọc chung với các bài phần trước trên mạng dunglac.net hay khoahoc.net (các số lưu trữ) để được liên tục. Trong rừng học mênh mông này, nếu người đọc có phê bình gì xin liên lạc để cùng học hỏi với người viết qua nguyencungthong@yahoo.com

(1) theo bài viết “Proto-Pearic and the classification of Pearic” của tác giả Robert K. Headley, Jr. Tiếng Chong có khoảng 5500 người nói, 5000 người ở Kampuchia và 500 người ở Thái Lan, có hiểm hoạ tuyệt chủng. Cộng đồng người Chong bên Thái Lan tập trung ở tỉnh Chantaburi. Tiếng Chong thuộc nhánh Pearic, họ Môn-Khme.

(2) ngày xưa lấy nước từ giếng lên phải dùng dây thừng chứ không có vòi (khoá) nước như bây giờ

(3) đoạn này dựa vào cuốn “12 con giáp” (trang 453) chủ biên Vũ Ngọc Khánh, Trần Mạnh Thường – NXB Hội Nhà Văn (Hà Nội, 1998). Sách này ghi lại nhiều huyền thoại Mường, Việt … về rắn và ‘ở VN, rắn được coi như là khởi nguồn của rồng’ …

(4) theo “Văn hoá về 12 con giáp” tác giả Thường Tuấn - bản dịch tiếng Việt – NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM – 2005. Trang 104 ghi ‘…Theo Quảng bá vật chí quyển 9 dẫn trong Ngũ vận lịch niên kỷ của Tứ Chỉnh thời Tam Quốc thì ‘Bàn Cổ có đầu rồng mình rắn’…’. Tác giả cũng ghi nhận rằng vùng văn hoá Ngô Việt thời cổ đại đều có tục thờ rắn …v.v…

(5) thật ra tha HV (tā BK) chính là con rắn (nghĩa cổ) – đây là chữ tượng hình. Thời thượng cổ, con người thường làm nhà trong hang động rất gần với các loài vật, nên khi gặp nhau thường hỏi thăm qua câu nói ‘vô xà hồ?’ hàm nghĩa là ‘không có việc gì chứ ? bạn ra sao ? bạn khoẻ không ? … Cũng như các câu hỏi thăm bây giờ ‘How are you?’ – theo Hán Việt Tự Điển (Thiều Chửu, bản in lại năm 1991). Một cách viết khác của xà (con rắn) rất ít gặp và dựa vào bộ hành hợp với chữ vi (wēi BK, làm) cho thấy tiếng TH có nhiều cách đọc địa phương (từ các dân tộc khác nhau) – làm tăng phần phức tạp khi đi ngược dòng thời gian phục hồi các âm cổ và chữ Hán Cổ. – và cho ta khái niệm Tỵ là cách ghi âm của rắn từ thời cổ đại.

(6) xem thêm “Nghiên cứu về chữ Nôm” – tác giả Lê Văn Quán, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội (1981); “Một số
vấn đề về chữ Nôm” – tác giả Nguyễn Tài Cẩn, NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp (1985); “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt” – tác giả Vũ Thế Ngọc, Eastwest Institute (California, 1989)

(7) theo Hồ Lê trong bài ‘Từ Nam Á trong tiếng Việt’, đăng trong cuốn “Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc phía Nam”, NXB Khoa Học Xã Hội – Hà Nội (1992)

(8) theo tài liệu trên mạng www.chinalanguage.com/cgi-bin/dict.php . Chữ ty viết bằng bộ trùng có tần số dùng là 19 trên 237243358.

(9) trong cuốn “Tang Thương Ngẫu Lục” của Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án, ta thấy truyện ‘Núi rết’ cho thấy con rết rất lớn, có miếu thờ ngay ở cửa hang núi. Tựa đề truyện này là ‘Ngô Công Sơn’ – ngô công HV (con rết) hay wú gōng giọng BK bây giờ. Trong vốn từ TH cũng có chữ jí BK (tức HV) viết bằng bộ trùng ít thấy với tần số dùng là 12 trên 430747376, nghĩa là con rết/rít mà giọng QĐ là zit1, Hẹ là zit7 – theo người viết là tàn tích của tiếng phương Nam từ từ bị đào thải. Liên hệ xa xôi với phương Nam của từ này còn phản ánh qua các nghĩa khác của jí BK như con dế, con chuồn chuồn … hay các từ chỉ loài vật như voi, cóc, bướm …v.v…

(10) cuốn “A Handbook of Old Chinese Phonology”, William H. Baxter – NXB Mouton de Gruyter (1992)

(11) theo tác giả Thường Tuấn trong cuốn “Văn Hoá 12 con giáp” – NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM (2005). Tác giả ghi nhận từ Thuyết Văn Giải Tự rằng ‘Mân là vùng đất phía đông nam của nước Việt, là nơi sinh ra các loài rắn, có bộ trùng, âm môn’ (trang 108). Để ý thêm là Ba, tên một nước cổ ở Tứ Xuyên bị Tần tiêu diệt, viết bằng bộ kỷ cũng như chữ Tỵ. Ba có nghĩa cổ nhất là ‘đại xà, tự triện thể tượng xà hình’ (theo Từ Nguyên), nhưng nước Ba cổ lại có tôtem là con hổ… Thành ra nhiều tác giả TH như từ trước đến nay Thường Tuấn chẳng hạn, cho rằng 12 con giáp có nguồn gốc là 12 con vật tôtem của các dân tộc ở TH ngày xưa.

(12) trích từ tài liệu (11) ở trên – ‘cách xếp loại’ của Hứa Thận dựa vào các bộ thủ (bộ trùng trong trường hợp này) rất sơ sài. So với các dạng tiếng Việt : *klan cho ra trăn, rắn, lân, trình (chình), lươn, long, rồng … và đơn âm hoá cho ra các dạng thằn lằn, thuồng luồng … cho ta mối dây liên hệ giữa thằn lằn và rắn. Điều này rất đáng chú ý vì các phân tích DNA loài rắn cũng như xương hoá thạch cho thấy có liên hệ giữa loài rắn (trên cạn và dưới nước, các chân đi đã thái hoá ) và thằn lằn sống trên cạn. Rắn mối tiếng Việt là con thằn lằn ! Xem phần viết về chi thứ 5 (Thìn/Thần – long/rồng) chi tiết hơn.

Nguyễn Cung Thông


Xem online : NGUỒN GỐC VIỆT NAM CỦA TÊN 12 CON GIÁP (phần 1)