HÌNH TƯỢNG MỸ THUẬT DI LẶC
Bồ tát Di Lặc, vị Phật tương lai, có một vị trí quan trọng trong nền tín ngưỡng và văn hoá Phật Giáo. Di Lặc là vị bồ tát duy nhất được các tông phái Phật Giáo, từ Tiểu Thừa, Đại Thừa và Mật tông tôn kính. Các kinh điển trong cổ ngữ tiếng Phạn Pali và Sanskrit, cũng như kinh tạng Đại Thừa chữ Hán và tiếng Tây Tạng đều có nói đến vị Phật tương lai này (h.1).
Các bộ sử lớn trong truyền thống Phật giáo Tích Lan (Sri Lanka), các bộ luận Đại Thừa trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng đã đề cập rất nhiều về Di Lặc. Trên bình diện các tượng mỹ thuật Phật Giáo, hình ảnh bồ tát Di Lặc đã xuất hiện khá sớm từ thế kỷ thứ hai tây lịch và trải qua gần 2000 năm lịch sử phát triển, hình ảnh Di Lặc đã phát triển rất đa dạng, có khi là bồ tát qua hình tướng một vị thái tử, có khi là một vị bồ tát đang ngồi trầm tư, cũng có lúc được thờ cúng như một vị Phật, có khi được diễn tả như một vị hoà thượng thiền sư.
Trong truyền thống Phật Giáo Việt Nam, ngài Di Lặc có một vị trí quan trọng. Người Việt đã tôn thờ ngài gần cả nghìn năm kể từ thời Lý cho đến ngày nay.
Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá lớn của nền văn hoá Phật Giáo Đại Thừa từ Trung Hoa du nhập vào. Có thể nói tín ngưỡng và hình tượng thờ Di Lặc tại Việt Nam chịu ảnh hưởng nhất là từ văn hoá Phật Giáo Đại Thừa do các vị tăng người Trung Quốc cuối thời Minh qua truyền đạo ở Việt Nam.
Bải viết trình bày những hình tượng điêu khắc tạo hình đầu tiên của Di Lặc để chúng ta hiểu thêm sự liên quan mật thiết hình tượng bồ tát Di Lặc được thờ ở các chùa Phật Giáo hiện nay với những hình tượng đã được hình thành từ thế kỷ 13-14, là những khuôn mẫu cho các hình tượng Di Lặc hiện đại. Do chú trọng về mặt phát triển lịch sử mỹ thuật Phật giáo của bồ tát Di Lặc xuyên qua hình ảnh hoà thượng Bố Đại, cho nên bài này sẽ không bàn tới lịch sử phát triển tôn giáo và tín ngưỡng của Di Lặc trong các truyền thống khác.
Chúng ta đều biết, hình tượng Bồ tát (Phật) Di Lặc hiện nay tại một số nước ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc (trong đó có Việt Nam) là mô phỏng theo hình ảnh Hoà thượng Bố Đại, một thiền tăng thần kỳ thời Ngũ Đại (895-960) tên Khế Thử, ở Triết Giang, Trung Quốc.
Chùa Nhạc Lâm quận Ninh Ba và núi Phi Lai Phong tại chùa Linh Ẩn đất Hàng Châu tỉnh Triết Giang là nơi xuất thân của tín ngưỡng Di Lặc qua hoá thân của ngài Bố Đại. Với hành tung thoát tục phi phàm, khi Bố Đại mất, người ta cho rằng ngài là hoá thân của Phật Di Lặc và đua nhau vẽ tạc hình tượng ngài.
Từ khi xuất hiện, lúc đầu là tranh vẽ, hình tượng Tiếu Phật (Phật cười), Tiếu khẩu Di Lặc Phật hay Bố Đại hoà thượng (h.2, 3) với miệng cười rạng rỡ, tâm tư khoáng đạt, giải thoát tự tại… đã thu hút sự ngưỡng mộ đặc biệt và gần như làm lu mờ các hình ảnh Bồ tát Di Lặc vốn đã định hình trước đó.
Tại Trung Quốc, trước thời Bố Đại (trước thế kỷ X), hình ảnh Di Lặc thường được tạc dưới dạng Bồ tát đang thuyết pháp cho chư thiên ở trời Đâu Suất (theo kinh Di Lặc thượng sinh) hoặc tương tự như Phật Thích Ca (theo kinh Di Lặc hạ sinh). Tượng Đại Phật Di Lặc ở Lạc Sơn, Tứ Xuyên, Trung Quốc được khởi tạo năm 713 là một điển hình (h.4 trên đầu bài).
Có niên đại từ thế kỷ thứ VII (666) với phong cách Ấn - Hoa, tượng Bồ tát Di Lặc ở ngôi chùa Kouryuu-ji, Nhật Bản (h.5) và trễ hơn là tượng Phật Di Lặc thời Heian, Trung Quốc (h.6), mỗi pho tượng đều mang đấu ấn tạo hình riêng.
Trước đó, từ thế kỷ II trở đi, các quốc gia Phật giáo ở Tây Á và dọc theo Con đường Tơ lụa thuộc nền văn hoá Gandhara đã tạc rất nhiều hình tượng Bồ tát Di Lặc theo phong cách Ấn Độ, có thể được mô phỏng theo hình ảnh của Tôn giả Maitreya hoặc Ajita được nói đến rất nhiều trong Kinh tạng. Một số tượng Bồ tát Di Lặc theo phong cách Gandhara, thế kỷ thứ II, đến nay vẫn còn được bảo tồn ở Pakistan (h.7, 8, 9).
Tại Ấn Độ, theo ngài Huyền Trang và Pháp Hiền trong khi chiêm bái và cầu pháp ở Tây Trúc đã nhìn thấy và mô tả lại những tượng Di Lặc rất lớn ở nhiều nơi như Bodhgaya và dưới chân núi cao ở Darel thuộc phía Bắc bang Kashmir, có niên đại từ thế kỷ I và thế kỷ II. Ngày nay, công trình xây dựng Đại Phật Di Lặc (h.10) ở Kushinagar, Ấn Độ theo phong cách Di Lặc cổ xưa, có thể là tượng Phật Di Lặc lớn nhất thế giới.
"Nhân thế hãn phùng khai khẩu tiếu…” – Hiếm gặp người ta mở miệng cười!
Đó là lời than của của phái Tiêu dao Trung Hoa thời cổ. Đối chiếu hình ảnh những pho tượng Phật Di Lặc cười rạng rỡ (Tiếu Phật) hiện nay với các hình ảnh Di Lặc cổ xưa, chúng ta mới thấy sự tiếp biến và sức sống kỳ diệu của tín ngưỡng Di Lặc. Không những thế, Phật Di Lặc ngày nay ngoài nụ cười sảng khoái, đeo túi vải to, chống gậy dài, sáu đứa trẻ lục tặc vây quanh… còn gồng gánh thêm nào là vàng bạc, vinh hoa, phú quý, tuổi thọ, phúc lộc như mong ước của mọi người về một năm mới thịnh vượng.
NGUYỄN TÂM (GNO)