Trang nhà > Giáo dục > Viết > Sách giáo khoa lịch sử mắc hàng trăm lỗi ?
Sách giáo khoa lịch sử mắc hàng trăm lỗi ?
Thứ Ba 24, Tháng Hai 2009
Chuyện vua lên ngôi, mỗi sách mỗi nẻo
Trong sách Lịch sử và Địa lý 4, trang 26 có viết: Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được giang sơn, lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), đóng đô ở Hoa Lư…, đặt tên nước là Đại Cồ Việt..., niên hiệu là Thái Bình". Trong khi đó, ở trang 28, sách Lịch sử 7 lại viết: "Mùa xuân năm 970, vua Đinh đặt niên hiệu là Thái Bình..."
Với học sinh có trí nhớ tốt, các em sẽ không chỉ lúng túng về năm Đinh Bộ Lĩnh đặt niên hiệu, mà còn tiếp tục băn khoăn về năm lên ngôi của Nguyễn Ánh.
Bởi trong sách Lịch sử và Địa lý 4, trang 65 cho biết : “Năm 1802, triều Tây Sơn bị lật đổ. Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế…”.
Tuy nhiên, ở sách Lịch sử 7 thì Nguyễn Ánh lại lên ngôi Hoàng đế vào năm … 1806 (trang 134). Còn ở sách Lịch sử 10 (trang 125) viết: “… Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua…”.
Theo chúng tôi, không chỉ khác biệt về mốc lịch sử, mà cách hiểu ngôi “vua” và ngôi “hoàng đế” cũng có sự khác nhau.
Nhiều sự bất nhất khác cũng là những thách thức đối với giáo viên lịch sử và các em học sinh.
Chẳng hạn, trong trang 50, sách Lịch sử 6, khẳng định Quỷ Môn Quan (1 trong những địa danh mà quân của Mã Viện đi qua khi tiến vào xâm lược Giao Chỉ) thuộc Tiên Yên, Quảng Ninh. Trong khi đó, trong sách học văn lớp 9 (tập 1, trang 88) và lại chú thích: Quỷ Môn Quan thuộc xã Chi Lăng (Lạng Sơn) ngày nay.
“Đánh đố” học sinh
Mặc dù sách Lịch sử 6 có hẳn một bài về: Cách tính thời gian trong lịch sử (trang 5), nhưng chính các tác giả rất nhiều lần "nhầm lẫn" trong cách diễn đạt các mốc lịch sử.
Chẳng hạn, trang 50, Lịch sử 7 viết: "... họ Trần buộc Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho Trần Cảnh vào tháng 12, năm Ất Dậu (đầu năm 1226)". Nếu đã viết năm Ất Dậu thì nên dùng là "tháng chạp", chứ không phải là tháng 12.
Bên cạnh đó, việc phân chia tư liệu lịch sử thành ba loại : "tư liệu truyền miệng"; "tư liệu hiện vật", "tư liệu chữ viết" đã thực sự thuyết phục chưa?
Học sinh sẽ rất lúng túng khi trả lời câu hỏi: "Quan sát hình 1 (Văn Miếu - Quốc Tử Giám) và Hình 2 (Một lớp học trường làng thời xưa), theo em đó là những loại tư liệu nào ?" (trang 5, Lịch sử 6)
Ở Hình 2- Bia Tiến sĩ (Văn Miếu - Quốc Tử Giám) là tư liệu hiện vật nhưng cũng có thể là tư liệu chữ viết?
Theo chúng tôi, chỉ nên chia thành tư liệu: truyền miệng và hiện vật. Trong hiện vật có tài liệu chữ viết, tranh ảnh, di vật, di tích - kể cả di vật hóa thạch...
Hay như trang 58 của sách Lịch sử 6 có viết:- "Lí Bí quê ở Thái Bình, mạn bắc Sơn Tây". Tuy nhiên, không hề có chú thích Thái Bình, mạn bắc của Sơn Tây thuộc vùng đất nào?
Hoặc từ trang 125 - 120 trong sách Lịch sử 8 có tới 3 lần nhắc đến sự kiện Nguyễn Tri Phương chỉ huy quân dân chống trả thực dân Pháp, nhưng tuyệt nhiên không có thêm thông tin gì về Nguyễn Tri Phương.
Với những học sinh có óc "tò mò", thì cách thông tin kiểu này quả là "đánh đố" các em! Các em sẽ đặt ra những câu hỏi kiểu như: "Thái Bình, mạn bắc Sơn Tây ở đâu?", hay "Nguyễn Tri Phương là ai?" ... và "chật vật" để tìm câu trả lời.
Đặc biệt, dùng qúa nhiều văn thơ để miêu tả các sự kiện lịch sử, có khi còn coi thơ văn là bằng chứng lịch sử là nét nổi bật trong phong cách viết của nhiều trang lịch sử THPT.
Chẳng hạn, trang 97, sách Lịch sử 10 có câu hỏi rất giống 1 đề thi văn: “Phân tích ý nghĩa của bài thơ Nam quốc sơn hà”…
Chậm cập nhật
HS cổ động trong chương trình "Đường lên đỉnh Olympia" - một sân chơi kiến thức thu hút HS phổ thông, với nhiều kiến thức trong SGK. Ảnh: Lê Anh DũngViệc Hà Tây sát nhập vào Hà Nội, chắc chắn sẽ cần phải chỉnh sửa nhiều địa danh trong SGK lịch sử những lần tái bản tới.
Nhưng có những sự thay đổi về địa danh đã lâu mà vẫn chưa được cập nhật.
Chẳng hạn, trang 73, Lịch sử 6 in năm 2008 vẫn ghi: Dương Đình Nghệ, quê ở làng Ràng (Dương Xá, Đông Sơn, Thanh Hoá). Trong khi từ năm 1996, tên làng đã được đổi thành "Làng Giàng", và chính người dân địa phương, hay trên cổng thông tin điện tử Thanh Hoá vẫn gọi tên làng là Làng Giàng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, yêu cầu chỉnh sửa và cập nhật những nhận thức mới về giai đoạn lịch sử triều Nguyễn là cấp bách nhất.
Đọc Lịch sử 8, phần "Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918", theo chúng tôi, hầu như bài nào, trang nào cũng có lời kết tội nhà Nguyễn.
Hội thảo khoa học về nhà Nguyễn được tổ chức cuối năm ngoái ở Thanh Hóa đã có nhiều kết luận công bằng, khách quan hơn về nhà Nguyễn. Vì vậy việc viết lại SGK lịch sử giai đoạn này là hoàn toàn có cơ sở khoa học.
Vô vàn bất nhất
Ngoài những lỗi như đã nêu, chúng tôi có thể chỉ ra vô vàn các lỗi và những "bất nhất" trong SGK lịch sử từ lớp 4 - 12, giữa SGK lịch sử với sách văn học, cũng như với các tài liệu khác.
Chẳng hạn, trang 51 của sách Lịch sử và Địa lý 4, các tác giả viết: "Hồng Đức Quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông". Trong khi đó, theo sách Ngữ Văn 10 (trang 145, tập 1) và nhiều tài liệu khác thì Hồng Đức Quốc âm thi tập là của 1 tập thể các tác giả (vua Lê Thánh Tông và các triều thần).
Mặt khác, chúng tôi nhận thấy rằng, nhiều tác giả có trình độ cao cũng phải mất hai năm liên tiếp mới biên soạn xong phần lịch sử trong Lịch sử và Địa lí 4, 5.
Vậy mà, qua 9 tháng, học trò lớp 4 phải "lướt" khá kĩ lịch sử Việt Nam từ khoảng 700 năm trước Công nguyên đến năm 1858. Tiếp nối Lịch sử 4, Lịch sử 5, giới thiệu lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay. Có nước nào trên thế giới bắt học sinh Tiểu học học hết lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc mình hay không (học một cách khô khan)?
Ở sách Lịch sử 8 và Lịch sử 11, có tình trạng "ngoại" nặng hơn "nội". Lịch sử 8 có 150 trang thì phần lịch sử thế giới đã chiếm 113 trang. Còn ở Lịch sử 11, có 160 trang (cả phụ lục) thì phần lịch sử thế giới chiếm 104 trang!
Và với muôn vàn những lỗi khiến học sinh “hoang mang” như trên, thử hỏi tại sao học sinh chán học lịch sử? Chúng tôi tha thiết đề nghị Bộ GD- ĐT xem xét lại.
Thanh Huyền – Văn Hiến (VNN)