Trang nhà > Tư duy > Dự báo > Dự báo GDP và bài toán tăng trưởng
Dự báo GDP và bài toán tăng trưởng
Thứ Tư 1, Tháng Tư 2009
Những dự báo về tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2009 của Việt Nam liên tục được các tổ chức nghiên cứu kinh tế thế giới công bố. Khác hẳn với con số lạc quan của chính phủ, nhiều dự báo cho thấy nước ta sẽ đối mặt với một năm đầy thử thách và có thể chỉ số tăng trưởng sẽ xuống thấp nhất từ trước đến nay.
Trong điều kiện khủng hoảng toàn cầu đã và đang làm suy kiệt nền kinh tế thì liệu những dự báo này chính xác được đến đâu, và có thật sự cần thiết hay không?
Dự báo GDP, đúng được đến đâu?
Hơn sáu tháng nay, nhiều dự báo về mức độ tăng trưởng GDP trong năm 2009 được đưa ra nhằm đánh giá tình hình kinh tế đang đối đầu khủng hoảng của nhiều quốc gia cũng như toàn thế giới. Riêng ở nước ta đã có nhiều dự báo khác nhau từ phía Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…, và cả Chính phủ Việt Nam cùng những tổ chức nghiên cứu độc lập.
Mới đây, trong một hội thảo tổ chức tại Hà Nội vào ngày 17 và 18/3, Cơ quan Thông tin Kinh tế thuộc Tập đoàn báo chí Economist ở Anh (Economist Intelligence Unit - EIU) công bố con số tăng trưởng GDP năm nay của Việt Nam chỉ có 0,3%!
So với mức dự đoán của Chính phủ Việt Nam là 6,2%, Ngân hàng thế giới là 5,5%, Quỹ tiền tệ quốc tế là 4,5% và Ngân hàng HSBC là 5,4%, thì nhiều người lo ngại rằng nhận định của EIU là quá bi quan.
Vậy tại sao những tổ chức uy tín trên thế giới lại có những dự báo khác nhau về Việt Nam với sai số chênh lệch như vậy?
Một là, dự báo chỉ số tăng trưởng GDP dựa trên những con số về sức tiêu dùng (cả công lẫn tư), đầu tư công, giá trị xuất khẩu và hàng tồn kho. Những chuyên viên dự báo làm việc với hàng loạt dữ liệu và con số để tìm cách giải bài toán dựa trên những trường hợp cụ thể, trong điều kiện kinh tế tương đối bình ổn hoặc nếu có biến động thì chỉ trong giới hạn nhất định.
Nói cách khác, những chuyên gia nghiên cứu này chỉ có thể dự báo trước những trường hợp tĩnh nhiều hơn động. Họ như người chụp lại những bức hình của tình hình trước đó để suy đoán những diễn tiến cho hình ảnh tiếp theo. Tuy nhiên, tình trạng hiện nay đang cực kỳ biến động nên không ai có đủ dữ liệu và giả định để đưa ra lời giải không có sai số.
Nếu trước đây, trong những giai đoạn bình thường, việc nghiên cứu và đưa ra dự báo được ví như chụp lại tấm ảnh của đàn kiến đang đi, thì bây giờ đó là hình ảnh của những chùm sao xẹt mà không một phương án hay tiền lệ nào có thể xác định được tính chính xác. Thế nên chỉ trong vòng vài tháng, chính những cơ quan nghiên cứu tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã phải thay đổi con số do họ dự báo đến ba, bốn lần.
Hai là, kinh tế thế giới vẫn còn đang trên đà rơi tự do và chưa ai biết đâu sẽ là đáy. Trong tình cảnh ấy, vấn đề chính của Việt Nam không phải là cần biết mức độ tăng trưởng năm nay được bao nhiêu (vì nếu cả tin vào một con số để làm bài toán hoạch định thì xác suất sai sẽ rất cao), mà nên tính đến tình cảnh xấu nhất có thể xảy ra để có những bước chuẩn bị cần thiết. Chúng ta hoàn toàn bị động với những điều kiện thay đổi từ bên ngoài, nhưng lại có thể chủ động được tối đa một số điều kiện cơ bản trong nước. Ngay cả nếu tăng trưởng của nước ta năm nay có thể là số âm cũng chưa hẳn là xấu nếu chúng ta có những biện pháp đối phó cụ thể và kịp thời.
Biện pháp kịp thời: Chi tiêu hợp lý và an sinh xã hội
Biện pháp thứ nhất chính là tìm cách chi tiêu hợp lý. Khi kinh tế xuống thấp thì từ người nội trợ đến nhà kinh tế vĩ mô hay điều hành quản lý đều phải thắt lưng buộc bụng, tăng thu giảm chi, tích cực cần kiệm. Tình cảnh hiện nay có thể dẫn đến thu nhập của mỗi người sụt giảm, dẫn đến GDP xuống thấp hoặc ngưng trệ, nhưng bên cạnh đó, giá cả các mặt hàng cũng hạ thấp, vấn đề nhập siêu cũng sẽ giảm nhiều. Nhìn sự việc theo hướng đó sẽ thấy vấn đề quan trọng là phải triệt để chi tiêu cần kiệm, đong đếm hợp lý, đặc biệt là các gói đầu tư công.
Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm đến những người bị ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái. Vì trong bất kỳ xã hội nào vấn đề ổn định an sinh xã hội luôn phải được ưu tiên hàng đầu, nếu không sẽ dẫn đến những hệ lụy về chính trị - xã hội, khiến cho bài toán kinh tế càng khó giải hơn.
Ảnh hưởng của cuộc suy thoái đến nền kinh tế lần này cũng như căn bệnh từ một đại dịch mới, đang lan rộng mọi nơi, chưa ai tìm được cách chữa trị. Liều thuốc hữu hiệu nhất trong hoàn cảnh hiện nay, cũng như trong mọi hoàn cảnh, là phải xây dựng lại nếp sống, loại bỏ những thói hư tật xấu, sống lành mạnh hơn để tăng cường thể lực cùng độ miễn nhiễm. Có như vậy mới có thể tồn tại tốt hơn để khi cơn bệnh đã qua vẫn còn đủ sức để bật dậy cạnh tranh.
Có một thực trạng là về lâu dài là cuộc khủng hoảng sẽ tạo nên những thặng dư lớn về lao động cũng như các phương tiện sản xuất khác. Cho nên khi kinh tế phục hồi, cạnh tranh sẽ rất khốc liệt vì ai cũng đã bị “đói” một thời gian dài nên sẵn sàng làm bất cứ việc gì với bất cứ giá nào để có ăn và tồn tại. Đối phó với cuộc khủng hoảng ngày hôm nay cần phải ổn định lại xã hội, bồi dưỡng nội lực bằng cách tích cực cải tổ môi trường kinh doanh, từ đó tạo cho mình thế cạnh tranh nội tại, chuẩn bị cho tương lai đầy thử thách.
Cải thiện môi trường kinh doanh, tăng tính cạnh tranh
Thật ra, gói kích cầu của Mỹ hay gói kích cầu trong nước đều có giá trị kinh tế giới hạn, chủ yếu chỉ là giá trị chính trị và để ổn định tâm lý. Ở bất kỳ quốc gia nào cũng vậy, sự can thiệp của Nhà nước không làm tăng hiệu suất kinh tế xã hội, mà phần lớn còn tác động ngược lại. Đơn cử khi cần sử dụng một số tiền lớn để kích cầu, Nhà nước phải bán trái phiếu cho những ngân hàng thương mại. Lượng tiền này do đó sẽ đi qua Nhà nước trước khi được đưa vào nền kinh tế, thay vì trực tiếp từ ngân hàng đến người sử dụng.
Hơn nữa, rủi ro của gói kích cầu chính là lượng tiền cần thiết không đến được đúng địa chỉ và đúng lúc. Một số đánh giá đã cho rằng trong lịch sử gói kích cầu trên thế giới chỉ có 15% số tiền được sử dụng thật sự có hiệu quả kinh tế. Thế nên nhìn ở mọi góc cạnh, yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh là cấp bách hơn bao giờ hết.
Tính cạnh tranh của Việt Nam đang còn ở mức thấp, cộng với hiệu suất đầu tư thể hiện qua chỉ số ICOR cũng thuộc hàng thấp nhất thế giới. Cụ thể là chúng ta phải đầu tư 5% GDP mới có thể tạo tăng trưởng được 1%! Hiệu suất đầu tư thấp như vậy phát sinh từ tính cạnh tranh ở nước ta không cao và tình trạng giậm chân tại chỗ đã kéo dài trong năm, sáu năm qua.
Hậu quả là khi chúng ta có cơ hội nhận những khoản tiền đầu tư lớn như ODA, đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài hay trong nước, thì nền kinh tế dễ gánh chịu tình hình lạm phát như những tháng đầu năm 2008. Điều này cũng giống như một cơ thể có bộ phận tiêu hoá yếu và không có nhiều cơ hội để hoạt động, nên khi được cho ăn nhiều thì dễ dẫn đến béo phì, huyết áp tăng, khiến cơ thể mệt mỏi, ảnh hưởng đến năng suất lao động.
Nếu không cải thiện môi trường kinh doanh, tăng tính cạnh tranh thì chúng ta chỉ còn cách giới hạn đầu tư để tránh lạm phát. Do vậy không còn cách nào là phải tích cực cải cách hành chính, cải thiện hạ tầng cơ sở vật chất cũng như xã hội (y tế, giáo dục…).
Chính hạ tầng cơ sở vật chất sẽ giúp tăng vận tốc lưu chuyển hàng hoá, tiền tệ lẫn con người - đó là những yếu tố chính của nền kinh tế, để cung và cầu đến gần với nhau nhanh hơn, dễ dàng hơn và với giá thấp hơn. Giáo dục tốt làm cho con người có khả năng sản xuất tinh hơn, gọn hơn, tăng giá trị gia tăng. Còn đầu tư về y tế có thể giúp tăng sức lực của con người và giảm những chi phí y tế - những chi phí mà xã hội có thể dùng để đầu tư và phát triển về lâu dài. Nếu chúng ta có hạ tầng cơ sở vật chất và xã hội tốt thì hiệu suất đầu tư tất sẽ tăng, cơ hội sử dụng những công nghệ tiên tiến cũng rộng mở hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế ngang tầm thế giới.
Có một số nghiên cứu cho rằng nếu hiệu suất đầu tư của Việt Nam ngang bằng hiệu suất đầu tư của Trung Quốc thì chỉ với một lượng đầu tư như vậy, mức tăng trường của GDP sẽ tăng thêm được 2%. Điều này hoàn toàn trong tầm tay chúng ta bằng việc ưu tiên cải cách hành chính cùng môi trường kinh doanh. Nếu không, thể lực của nền kinh tế nước nhà sẽ bị xói mòn nghiêm trọng từ đại dịch suy thoái và rất bất lợi khi kinh tế thế giới hồi phục.
Trần Sĩ Chương (Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần)